Warning: Invalid argument supplied for foreach() in /home/u525530285/domains/saigonxua.net/public_html/wp-includes/class-wp-post-type.php on line 752
Warning: Invalid argument supplied for foreach() in /home/u525530285/domains/saigonxua.net/public_html/wp-includes/class-wp-post-type.php on line 752 Bức tranh toàn cảnh miền Bắc Việt Nam 100 năm qua - Sài Gòn Xưa
Trang nhà/Đời sống/Bức tranh toàn cảnh miền Bắc Việt Nam 100 năm qua
2023-08-10T01:00:04-05:00
Bức tranh toàn cảnh miền Bắc Việt Nam 100 năm qua
Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, tôi lại thích nghĩ về quá khứ, về những gì đã qua. Tết là một cái cớ để sống chậm lại và suy ngẫm về những giá trị cũ. Thời gian lúc này như chậm lại để cho những dòng ký ức cứ bám quanh người đặc quánh, nghi ngút. Tôi lại lục tung những hang cùng ngõ hẻm của mạng Internet để kiếm tất cả những bức ảnh miền Bắc từ xưa đến nay mình có thể tìm được. Tôi chợt nhận ra, ảnh về Việt Nam xưa nay cũng không hề ít nhưng mỗi chỗ rải rác một nơi mang nặng tính chất nhà kho hơn là kết nối. Vậy là ý tưởng của bài này ra đời, tôi bỏ ra hai ngày tổng hợp và chọn ra hơn 300 bức ảnh màu/đen trắng của miền Bắc Việt Nam 100 năm qua (từ 1915 đến 2015), cộng thêm chú thích những gì có thể để tạo thành một câu chuyện dài, một bức tranh toàn cảnh của những hoài niệm.
Di sản của ông cha ta để lại không chỉ là những thứ xa xôi, cao siêu như giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc cần được đánh thức và bảo tồn mà còn là những khoảnh khắc, thói quen, con người đã gắn bó sâu đậm đến mức trở thành một phần của tiềm thức, không bao giờ thay đổi.
Phố Paul Bert (năm 1914/1915), nay là phố Tràng Tiền, Hà Nội. Paul Bert là một nhà động vật học, sinh lý học, và chính trị gia người Pháp, ngoài đường Paul Bert thì tên ông còn được chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương dùng đặt tên một vườn hoa ở Hà Nội, vườn hoa Paul Bert (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ).
Eue des Ferblamctiers (phố Hàng Thiếc), Hà Nội, 1915. Nối từ cuối phố Hàng Bồ đến phố Hàng Nón, ngày nay phố này là nơi tập trung các nhà sản xuất những mặt hàng bằng tôn, kẽm, sắt tây và gương soi. Trước thời Pháp thuộc thì là nơi sản xuất và bày bán các loại hàng đúc bằng thiếc như cây đèn, cây nến, lư hương, ấm, khay đựng chén…
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng Hà Nội, ngày xưa vốn được đặt tên là Paul Doumer, theo tên của Quan Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Khởi công năm 1898 và hoàn thành năm 1902.
Thầy đồ viết câu đối để bán. Xin chữ thầy đồ ngày tết là truyền thống dân gian từ xưa, khi đó đa phần không biết chữ nên mới có phong tục thờ chữ trong nhà để mơ ước con cháu sau này được học hành, làm ăn phát đạt. Sau này thì nó đơn giản là một phong tục với mong muốn mang lại may mắn, bình an cho gia đình.
Phố Hàng Gai, Tết Trung thu 1915. Một phần con phố hồi cuối thế kỷ 19 có tên là phố Hàng Tiện: có những cửa hàng nhỏ, thợ vừa tiện vừa bán những đồ thờ, mâm bồng, đèn nến, ống hương, đài rượu, khuôn ván, mõ gỗ… Họ tiện cả những thứ nói trên nhưng cỡ nhỏ bé để trẻ con chơi.
Hàng Đào (Hà Nội) những năm thập niên 20. Phố Hàng Đào là một phố trong khu phố cổ Hà Nội. Phố Hàng Đào nằm theo hướng bắc – nam, dài khoảng 260m. Đầu phía nam của phố là quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hoàn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố từ xa xưa. Hiện nay Hàng Đào là phố một chiều cho các phương tiện giao thông và vẫn được coi là phố buôn bán chính. Ảnh: Charles Peyrin
Mỏ than ở Hòn Gai, 1921. Ngày xưa dù là kẻ thắng trận trong Thế chiến II nhưng Pháp chịu nhiều tổn thất nặng nề về kinh tế và là con nợ lớn của Mỹ. Để bù đắp chiến phí, Pháp càng tăng cường mạnh mẽ việc khai thác thuộc địa, nhất là Đông Dương vì nơi đây vốn là một vùng đất giàu có về khoáng sản và nông nghiệp. Đặc biệt than luôn đứng đầu trong số các khoáng sản được khai thác ở Việt Nam
Gần mộ mỏ đồng, 1915. Bên cạnh than, các mỏ đồng, thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác, sản lượng tăng gấp nhiều lần trước chiến tranh.
Vùng biên giới Trung Quốc, làng Na-Cham năm 1915 (ngày nay là thị trấn Na Sầm thuộc huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn). Thị trấn Na Sầm có diện tích 1,5 km², dân số năm 1999 là 3299 người. người ta hầu như không dùng tiền mặt, nếu có thì chủ yếu là tiền lẻ. Ở đây có chợ Na Sầm, đa phần hàng hoá được mua bán bằng cách trao đổi.
Những năm thập niên 20. Vườn hoa cạnh Hồ Gươm, góc Hàng Khay/Đinh Tiên Hoàng bây giờ. Cái đài ở góc trái ảnh giờ không còn nữa. Ảnh: Charles Peyrin
Cấy lúa ngày xưa.
Nhuộm răng đen là một tục lệ có từ lâu đời của Việt Nam, đơn giản là vì quan niệm về thẩm mỹ mỗi thời mỗi khác thôi. Như tôi đọc sách thì các cụ viết rằng trước hết dùng cánh kiến tán nhỏ, vắt nước chanh để kín bảy ngày, chờ tối đi ngủ phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc mo cau rồi ấp vào hai hàm răng. Trong thời gian nhuộm răng thì phải kiêng nhai. Lặp lại như thế một tuần cho răng ra màu cánh gián thi bôi thuốc răng đen. Thuốc răng đen làm bằng phèn đen trộn với cánh kiến, nhuộm vài miếng là đen kịt lại, rồi đốt cho chảy nhựa ra, lấy nhựa ấy phết vào răng cho không phai ra được nữa.
La Rue du Cuivres. Phố Hàng Đồng, Hà Nội, 1915. Thời Pháp thuộc hai phố Hàng Đồng và Bát Sứ thuộc phố Rue des Tasses (phố Hàng Chén). Ngày xưa đây là nơi cung cấp chế tác các sản phẩm từ Đồng cho cả kinh thành.
Cô bé chăn trâu (1915)
Quan tổng đốc một tỉnh gần Hà Nội (1915). Ngày xưa đây là một chức quan của chế độ phong kiến trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Ở Việt Nam, từ năm Tân Mão 1831, năm thứ 12 triều vua Minh Mạng, nhà vua chia Việt Nam thành 31 tỉnh, trong đó miền Bắc có 6 quan tổng đốc: Sơn Hưng Tuyên, Hà Ninh, Ninh Thái, Hải An, Định An, Lạng Bình.
Cô gái ăn trầu (1915). Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Trầu cũng được dùng để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của những thế hệ đi trước. Trầu cau gần gũi với ông bà chúng ta như thế nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn hóa và con người Việt Nam xưa.
Phố Hàng Khoai. Phố Hàng Khoai dài trên ba trăm năm mươi mét đi từ bờ sông Hồng đến ngã năm Hàng Lược. Phố có tên là Hàng Khoai vì ở sát bên chợ Đông Xuân, hàng ngày nông dân ngoại thành hay tập trung ở đây để bán các thứ nông sản nhiều nhất là các loại khoai: khoai lang, khoai sọ, khoai môn, cùng với gạo, ngô, đỗ, sắn.
Bán nước chè. 1919.
Nhà thờ ở Lạng Sơn. Thành phố trước đây có tên là Thị xã Lạng Sơn và trở thành thành phố vào năm 2002, là đô thi loại III. Giáo phận ở đây phát triển khá mạnh với rất nhiều nhà thờ.
Cổng tam quan chùa Láng. Chùa Láng còn gọi là Chiêu Thiền tự, là một ngôi chùa đường Chùa Láng, trước kia vốn là ngõ Giếng của làng Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: “Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền”. Người Pháp gọi là Pagode des Dames. Còn cổng tam quan là một loại cổng có ba lối đi thường thấy ở chùa chiền theo lối kiến trúc truyền thống Việt Nam. Cổng tam quan mang ý niệm “ba cách nhìn” của Phật giáo gồm có “hữu quan”, “không quan” và “trung quan”, thể hiện cái sắc (giả), cái không (Vô thường) và trung dung của cả hai.
Từ Khuê Văn Các nhìn ra cổng tam quan. Theo dự thảo Luật thủ đô được thông qua trong kì họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII ngày 21/12/2012, Khuê Văn Các tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được chọn làm biểu tượng của thủ đô Hà Nội.
Ô Quan Chưởng à một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Ngày nay, ô Quan Chưởng nằm nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, gần dưới chân cầu Chương Dương.
Hà Nội 1928, tượng đài kỷ niệm binh lính Pháp và Việt chết trong Đệ nhất Thế chiến. Thời Pháp thuộc là một giai đoạn của lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ năm 1884 đến 1945. Đây là thời kỳ Việt Nam, cùng với Lào và Campuchia thuộc Đông Dương, trở thành thuộc địa của Pháp. Sau khi xâm chiếm thành công Đông Dương, người Pháp chia Việt Nam ra làm 3 xứ riêng lẻ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ; cùng với 2 xứ bảo hộ Ai Lao (Lào) và Cao Miên (Campuchia) trở thành Liên bang Đông Dương.
Tàu hỏa Hà Nội-Hải Phòng đang chạy qua cầu Phú Lương, Hải Dương. Tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng dài 102 km được thực dân Pháp khởi công xây dựng từ năm 1901 nhằm mục tiêu biến con đường huyết mạch này thành phương tiện chủ yếu phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược tại vùng Bắc Bộ.
Ga Hà Nội 1921-1935
Ga Hà Nội 1921-1935
Trong toa hàng ăn trên tuyến Xuyên Việt 1921-1935.
Trong toa hạng tư, dành cho người ít tiền, thường mang theo đồ đạc cồng kềnh.
Lạng Sơn 1931.
Cột cờ Hà Nội (1935), được xây dựng cùng thời với thành Hà Nội dưới triều nhà Nguyễn (bắt đầu năm 1805, hoàn thành năm 1812)
Nhà tù Hỏa Lò được xây từ năm 1896 bởi thực dân Pháp, với mục đích giam giữ những người chống chế độ thực dân. Nơi đây từng là một trong những nhà tù kiên cố và lớn nhất ở Đông Dương.
Chợ hoa góc hàng Khay – Đinh Tiên Hoàng. Thời Pháp thuộc, đầu phố bên phía hồ Gươm từng là chợ hoa trong khoảng nửa thế kỷ. Ngoài ra ở đây còn có nghề khảm trai, thế nên mới có tên phố Hàng Khay – ở đây chuyên làm nghề đồ gỗ khảm trai, trong đó có mặt hàng khay.
Hồ Gươm nhìn từ trên cao.
Hà Nội những năm thập niên 30. Ngã tư Phố Nguyễn Hữu Huân (Rue Maréchal Pétain) với Phố Hàng Mắm (Rue de la Saumure). Ảnh: Charles Peyrin
Hà Nội những năm thập niên 30. Ảnh chụp dùng kỹ thuật phơi sáng kép (double exposure) của một nhiếp ảnh gia vô danh.
Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, những năm 1930/40.
Hải Phòng, 1931.
Hà Nội 1940.
Hà Nội 1940. Một biển quảng cáo sữa đặc Nestle. Ảnh: Harrison Forman
Hà Nội 1940. Người dân đang xây dựng hầm trú ẩn, trong giai đoạn này trẻ em cũng phải tham gia lao động. Ảnh: Harrison Forman
Hà Nội 1940. Tàu điện trên phố Hàng Đào. Ảnh: Harrison Forman
Hà Nội 1940. Trạm xăng Texaco gần cầu Long Biên. Thời gian đầu do cầu Long Biên còn hẹp chưa được mở rộng hai bên nên xe chở khách đi tỉnh không thể qua cầu, phải đi phà sang bên kia sông. Năm 1923, việc mở rộng đường hai bên cầu hoàn thành nên xe không phải qua phà nữa. Ba hãng xăng là Shell, Socony và Texaco (của Mỹ) mở điểm bán xăng và Texaco đã giành được quyền tài trợ xây nhà bán vé khang trang, trên nóc nhà bán vé có cột hình vuông 4 mặt có tên Texaco. Theo tạp chí “Tự nhiên” xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1926 phát hành tại Hà Nội thì năm 1925, trung bình một ngày có 4 xe tải, 166 xe ô tô con và 79 lượt xe buýt qua lại cầu Long Biên. Ảnh: Harrison Forman
Hà Nội 1940. Một cửa hàng vé số dạo. Ảnh: Harrison Forman
Hà Nội 1940. Nhà hát lớn Hà Nội được người Pháp khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1911 theo mẫu Nhà hát Opéra Garnier ở Paris nhưng mang tầm vóc nhỏ hơn và sử dụng các vật liệu phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương Việt Nam. Ảnh: Harrison Forman
Hà Nội 1940. Bên ngoài rạp Eden. Cái rạp này hồi trước tên là “Cinema Palace”, là rạp phim hoành tráng nhất ở Hà Nội. Nó có mặt tiền thật đẹp tựa cái vỏ con sò cách điệu. Thời thực dân Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947-1954), rạp đổi tên thành “Eden”. Người chủ mới không biết muốn tỏ ra khác trước hay vì trào lưu kiến trúc tân kỳ mà che cái mặt tiền đẹp đó bằng những tấm gỗ dán vuông thành sắc cạnh như trong ảnh này để đến nỗi mọi người quên bẵng diện mạo kiến trúc ban đầu, ngay cả khi sau này nó được đổi thành rạp chiếu bóng “Công nhân” rồi sàn diễn chuyên nghiệp của Đoàn kịch nói Hà Nội. Ảnh: Harrison Forman
Đây chính là rạp Eden (khi đó còn tên là Cinema Palace) ở trên trước khi bị thay mặt tiền.
Hà Nội 1940. Ảnh: Harrison Forman
Bảng hiệu tính khoảng cách từ Hà Nội đến các tỉnh miền Bắc ở đầu cầu Long Biên. 1940. Ảnh: Harrison Forman
Cuối thế kỷ 19, các cửa hàng bách hóa (Grands Magasins, Department Stores) ở Paris xuất hiện rất thành công dẫn đến điều tất yếu là mô hình này được lan rộng ở Việt Nam với Maison Godard, sau này thành Grands Magasins Réunis (sau này là Bách Hóa Tràng Tiền và bây giờ là Tràng Tiền Plaza) xây khoảng 1900. Ở Sài Gòn, Grands Magasins Charner tức Thương xá Tax xây năm 1921. Ảnh: Harrison Forman
Bốn cô gái trẻ Hà Nội, khoảng năm 1940.
Ngày giỗ vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) tại đền thờ vua Lê gần hồ Gươm (1949).
Một tiệm bánh ở Phố Hàng Trống. Le Pâtissier Thụy-Sỹ “Au goût Européen”.
Hội đấu vật (1950)
Hà Nội 1950. Cảnh sát giao thông điều hướng ở góc Đồng Khánh-Phố Hàng Khay (nay là Hàng Bài-Hàng Khay). Ảnh: Harrison Forman
Lạng Sơn, 1950.
Nghĩa trang lính Pháp ở Lạng Sơn, 1950.
Ban quân nhạc Lê dương Hải ngoại Pháp diễn hành trên con đường chính của Lạng Sơn, 1950.
Đồn biên thùy CHIMA, Lạng Sơn, 1950.
Ngày 17 tháng 7 năm 1953, lúc 08h sáng, Trung úy Rivier, Y sĩ trưởng của Tiểu đoàn 6 Nhảy dù Thuộc địa đứng quan sát đơn vị mình đang hạ xuống bằng dù (tại phía bắc Lạng Sơn, dọc theo Quốc Lộ 4) trong chiến dịch “Chim én”. Chiến dịch này nhằm mục đích phá hủy các kho vũ khí và trang thiết bị ở gần thành phố Lạng Sơn, nơi đã trở thành một trung tâm tiếp nhận vũ khí do Trung Quốc giúp Việt Minh kể từ tháng 10 năm 1950.
Điện Biên Phủ tháng Năm, 1954. Ảnh: Bettmann/CORBIS
Hà Nội ngày giải phóng, 10/10/1954. Sau khi chính quyền lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố Việt Nam độc lập, thực dân Pháp, dưới danh nghĩa lực lượng Đồng Minh, tiến vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật nhưng kỳ thực với mưu đồ tái chiếm thuộc địa. Chính quyền Việt Nam đã cố gắng hòa hoãn, nhưng cục diện càng lúc càng căng thẳng. Năm 1946 mở màn Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất giữa lực lượng Việt Minh và quân viễn chinh Pháp. Với lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ, thiếu thốn, phải chống lại lực lượng tinh nhuệ được vũ trang hiện đại của Pháp, quân đội Việt Nam cầm chân và tiêu hao quân Pháp trong gần 2 tháng, sau đó các lực lượng Quyết tử Việt Nam đã thực hiện chiến thuật chiến tranh đô thị cầm chân quân Pháp, tạo thời gian để chính quyền Việt Nam rút về chiến khu và tổ chức cuộc chiến tranh lâu dài về sau. Về phía Pháp, chiếm được Hà Nội với tổn thất tương đối nhỏ, quân Pháp tin tưởng sau khi chiếm được Hà Nội, họ sẽ có thể dễ dàng và nhanh chóng bình định được toàn bộ Việt Nam, nhưng cuộc chiến đã kéo dài đến chín năm, kết thúc tại chiến trường Điện Biên Phủ với thất bại hoàn toàn của người Pháp.
Hà Nội 10.10.1954
Với thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký Hiệp định Geneve, đồng thời rút hết quân về nước. Đúng tám giờ ngày 10/10/1954, các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam tiến vào từ 5 cửa ô, tiếp quản Thủ đô sau chín năm bị tạm chiếm.
Bán ảnh các lãnh tụ Cộng sản trên đường phố Hà Nội ngày 11-10-1954.
Dân đứng bên đường xem quân Pháp rút lui. Hà Nội, 10.10.1954
Hà Nội 1954.
Việt Minh tiến vào Hà Nội sau khi quân Pháp rút đi. Hà Nội 10.10.1954
Bộ đội tiếp quản Phủ Thống sứ Bắc Kỳ. Hà Nội 10.10.1954
Bến xe điện Bờ Hồ. Hà Nội 1954.
Hà Nội 10.10.1954
Binh sĩ Quốc gia VN rút từ Nam Định về Hà Nội, tháng 7/1954.
Binh sĩ Quốc gia VN rút từ Nam Định về Hà Nội, tháng 7/1954
Hà Nội 1954.
Lính Pháp chuẩn bị rút khỏi Hà Nội. Tháng 10, 1954
Đấu tố địa chủ năm 1955 ở miền Bắc Việt Nam.
1967. Xe điện chạy qua trung tâm Hà Nội ( góc Avenue Puginier và Rue du Coton trong bản đồ năm 1936, nay là góc Điện Biên Phủ-Phố Hàng Bông, cạnh vườn hoa Cửa Nam)
Miền Bắc Việt Nam 1967. Một bé trai bị cụt chân do không kích dùng cành cây chống nạng đứng cạnh bố.
Hà Nội 1967, một cửa hàng làm tóc
Hà Nội 1967. Phái đoàn ngoại giao Cuba rời Hà Nội vào miền Nam bằng những chiếc xe con được ngụy trang, cách thức di chuyển đúng tiêu chuẩn khi đi ra ngoài vùng quê.
Góc đường Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Biểu, sát ngay nhà máy điện Yên Phụ Hà Nội, một trọng điểm ném bom của Mỹ năm 1967 và 1972. Không xa nơi đó là trận địa pháo phòng không 100 mm của Hồ Trúc Bạch, nơi Thiếu tá McCaine rơi ngày 26-10-1967.
Một ngôi nhà bị đánh bom ở thị xã Phủ Lý (nay là thành phố Phủ Lý) năm 1967.
Giấy tớ thu được của những phi công Mỹ bị bắt giữ.
Đồ đạc của các phi công Mỹ bị bắt giữ.
1967. Trẻ em miền Bắc chân đất đi học, đội mũ rơm chống mảnh bom.
1967. Cư dân Hà Nội ngồi trong hố trú bom cá nhân đợi còi báo hiệu chấm dứt không kích.
Thợ làm thảm cói trong một ngôi nhà thờ cũ đã bị ném bom.
1967. Phía trước một nhà thờ ở Phát Diệm, người lao động khiêng sợi gai dầu dùng để dệt thảm và chiếu.
Thợ dùng cối xay thô sơ để nghiền những quả dâu dùng nhuộm sợi gai dầu.
Lính Mỹ chuẩn bị tiệc Giáng sinh 1968 trong trại giam.
Miền Bắc Việt Nam 1969.
Miền Bắc Việt Nam 1969. Ảnh: Thomas Billhardt
Tàu Liên Xô bốc dỡ hàng hóa tại cảng Hải Phòng, 1967.
1967. Một dân quân điều khiển khẩu súng phòng không bên ngoài một nhà máy tại Hải Phòng. Khẩu súng này do Mỹ chế tạo và tịch thu được từ người Pháp tại Điện Biên Phủ.
Thái Bình 1967- Xã viên tiên tiến hợp tác xã nông nghiệp xã Nguyên Xá (Vũ Thư, Thái Bình) hút thuốc lào tại nhà. Trong tủ là một tượng Phật và một tượng bán thân của Joseph Stalin. Ảnh: Lee Jonathan Lockwood/Black Star
Xe phòng không trên đường phố Hà Nội. Ảnh: Lee Lockwood/Black Star
Miền Bắc Việt Nam 1969.
1969. Khuôn mặt trẻ em khi lần đầu nhìn thấy người phương Tây.
Chủ tịch Bắc Việt Nam Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng, hình chụp tại vườn Phủ chủ tịch tháng 11/1968. Ảnh: Marc Riboud
Miền Bắc Việt Nam 1972. Ảnh: Thomas Billhardt
Miền Bắc Việt Nam 1972. Ảnh: Thomas Billhardt
Miền Bắc Việt Nam 1972. Ảnh: Thomas Billhardt
Ngoại ô Hải Phòng 1972.
Hà Nội 1972 – Sản xuất hố tránh bom cá nhân.
Hà Nội 1972 – Hố bom trong sân bệnh viện Bạch Mai.
Kem bờ hồ, Hà Nội 1973.
Kem bờ hồ, Hà Nội 1973.
Chào cờ, 20/03/1973.
Đánh bom ngày 17/05/1972 ở Hải Phòng.
Chợ gạo vùng quê miền Bắc VN, năm 1973.
Hải Phòng 1972 – Trung đội cao xạ số 5.
Đội hình F-4 phối hợp với A-7 không kích miền Bắc Việt Nam năm 1972.
Cảnh một đường phố ở khu vực trung tâm Hanoi, ngày đầu năm mới 1973. Vào thời điểm này xe đạp là phương tiện chủ yếu trong thành phố.
Hà Nội, 18/03/1973
1973. Trao trả tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm.
116 tù binh Mỹ được trao trả ngày 12/2/1973.
1973. Máy bay vận tải C-141 của Không quan Mỹ đến sân bay Gia Lâm, Hà Nội để đón tù binh Mỹ được trao trả.
Hà Nội 1973 – nhặt nhạnh gạch để dựng lại nhà tại phố Khâm Thiên. Ảnh: Werner Schulze
Giáo viên mầm non ở một trường gần Hà Nội, Tháng Ba, 1973. Ảnh: Werner Schulze
Khâm Thiên, Hà Nội, 1973. Ảnh: Werner Schulze
Trẻ em đùa nghịch với nhiếp ảnh gia, Tháng Ba 1973. Trước đó gần hai tháng, hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Ngày 29 tháng 3 năm 1973, quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ chỉ còn duy trì viện trợ và cố vấn quân sự. Từ nay chỉ còn Quân lực Việt Nam Cộng hòa đơn độc chống lại Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Ảnh: Werner Schulze
Khâm Thiên, Hà Nội 1973. Ảnh: Werner Schulze
Hải Phòng, 1973. Ảnh: Werner Schulze
Hải Phòng, 1973. Ảnh: Werner Schulze
Hải Phòng, 1973. Ảnh: Werner Schulze
Hà Nội Tháng Ba, 1973. Ảnh: Werner Schulze
Làng hoa Nghi Tàm, 1973. Từ chùa Trấn Quốc nhìn theo ven Hồ Tây, qua phố yên Phụ, cuối con đường là đến đất “Tằm tang” – Làng hoa Nghi Tàm xưa, nay thuộc phường Quảng An, Tây Hồ, Hà Nội. Nghề trồng hoa cảnh của Nghi Tàm có truyền thống lâu đời. Ảnh: Werner Schulze
Đội viên thiếu niên Tiền Phong quàng khăn đỏ, Hà Nội 1973. Ảnh: Werner Schulze
Một đầu tên lửa sót lại từ Chiến dịch Linebacker II (Điện Biên Phủ trên không) – chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam, kéo dài 12 ngày đêm từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi Hội nghị Paris bế tắc và đổ vỡ do hai phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ bất đồng về các điều khoản trong hiệp định. Tại chiến dịch này Hoa Kỳ đã sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm, thả hơn 36.000 tấn bom, vượt quá khối lượng bom đã ném trong toàn bộ thời kì từ 1969 đến 1971. Ảnh: Werner Schulze
Hà Nội tháng Ba, năm 1973. Sửa chữa cầu Long Biên.
Hà Nội tháng Ba, năm 1973. Một anh công nhân trên công trường sửa chữa cầu Long Biên.
Hà Nội 1975. Ảnh: Henry J. Kenny
Mấy chục năm trước, nhiều chiếc xe đạp trị giá cả cây vàng, được cấp giấy chứng nhận sở hữu, có biển số và được giữ gìn như vật báu trong nhà.
Xe đạp Thống Nhất được khóa cẩn thận trước cửa rạp chiếu bóng.(rạp Tháng Tám, Hà Nội)
Phố Ngô Quyền, Hà Nội 1975. Đây cũng là năm chiến tranh chống Mỹ hoàn toàn kết thúc với cuộc tổng tấn công mùa xuân 30/04/1075
‘Một yêu anh có Sen-kô (đồng hồ đeo tay hiệu Seiko) / Hai yêu anh có Pơ – giô cá vàng (xe đạp Peugeot màu cá vàng) / Ba yêu anh có téc gang (quần vải téc) / Bốn yêu hộ tịch rõ ràng Thủ đô’. Xe đạp trở thành một trong những tiêu chí chọn chồng của các cô gái thời đó. Những thanh niên “mới lớn” coi xe đạp là thứ đồ hàng hiệu!
Hà Nội 1975. Ảnh: Henry J. Kenny
Hà Nội 1975. Ảnh: Henry J. Kenny
Phái đoàn đầu tiên của Mỹ sang Việt Nam từ sau chiến tranh. Hà Nội, Tháng 12, 1975.
Miền Bắc Việt Nam 1979. Ảnh: Thomas Billhardt
Suối Yến đẫn đến chùa Hương , huyện Mỹ Đức, Hà Tây (nay là Hà Nội). Ảnh: Thomas Billhardt
Chiến tranh Việt Trung 1979. Ảnh: Thomas Billhardt
Chiến tranh Việt Trung 1979. Ảnh: Thomas Billhardt
Tù binh Trung Quốc trong chiến tranh Việt Trung năm 1979. Ảnh: Thomas Billhardt
Bộ đội tên lửa
Mít tinh ăn mừng chiến thắng Trung Quốc năm 1979. Ảnh: Thomas Billhardt
Mít tinh ăn mừng chiến thắng Trung Quốc năm 1979. Ảnh: Thomas Billhardt
Chợ Đồng Xuân. Đây là một trong những chợ lớn nhất tại Hà Nội, Việt Nam; là chợ lớn nhất trong khu phố cổ Hà Nội. Chợ có lịch sử tồn tại hàng trăm năm từ thời phong kiến nhà Nguyễn.
Tết Hà Nội.
Những đồ Tết ngày xưa nhà nhà hay mua.
Tàu điện Hà Nội, 1980.
Tam Đảo, Vĩnh Phúc, 1985. Đây là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Máng Chỉ. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt đối là 1.591m. Ảnh: Imre Villányi
Tàu điện trên phố Đồng Xuân. Lịch sử tàu điện ở Hà Nội bắt nguồn từ năm 1900 khi người Pháp cho chạy thử chuyến tàu điện đầu tiên từ Bờ Hồ – Thụy Khuê nhằm phục vụ nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa. Trong những thập niên sau đó, các tuyến tàu điện liên tục được mở rộng. Từ ga Trung tâm ở bờ hồ Hoàn Kiếm, các tuyến đường toả ra 6 ngả: Yên Phụ, chợ Bưởi, Cầu Giấy, Hà Đông, chợ Mơ và Vọng, cũng là sáu cửa ngõ nối nông thôn với nội thành. Thời Pháp thuộc tàu điện chia làm 2 hoặc 3 toa với thứ hạng: hạng nhất, hạng hai. Hạng nhất là khoang nhỏ ở toa đầu sát chỗ đứng người lái, vé đắt gấp đôi hạng hai.
Hà Nội 1990. Khách đi tàu thường đông vì giá vé rẻ. Người bán vé kiêm luôn việc cầm dây thừng xoay ngược cần lại mỗi khi tàu đổi chiều đi tại bến cuối. Khi người Pháp rút khỏi Hà Nội, họ tin rằng chỉ sau 3 tháng Hà Nội sẽ không còn tàu điện bởi cơ sở vật chất cho tàu điện hoạt động khi ấy đã gần như kiệt quệ. Thế nhưng thành phố không những đã duy trì được mà tàu điện còn phát triển, nhiều tàu mới toa mới được đóng thêm. Lúc đỉnh cao ngành đạt được 37-38 triệu lượt khách/năm.
Nhưng thời kỳ hoàng kim của tàu điện cũng không kéo dài mãi. Tàu điện lạc hậu cũ nát không còn phù hợp với nhịp sống và sự phát triển các phương tiện giao thông cá nhân. Cuối những năm 80, Công ty xe điện Hà Nội rơi vào khủng hoảng. Các toa tàu với thiết bị cũ kỹ lạc hậu, dù được cải tiến sửa chữa nhưng vẫn rơi vào khó khăn và càng lúc càng ít người đi. Đến đầu những năm 90, trước sức ép của phát triển kinh tế, xã hội, tàu điện Hà Nội đã phải tháo dỡ vì không đáp ứng được nhu cầu giao thông trong thành phố, kết thúc tuổi đời 90 năm – gần một thế kỷ.
Rừng Cúc Phương, Ninh Bình (Khi đó còn là Hà Nam Ninh), 1985. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam.
Lăng Hồ Chí Minh (1986). Lăng Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi bác đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn. Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975.
Hà Nội 1986
Văn Miếu Quốc Tử Giám 1986. Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.
Phúc Xá / Long Biên – Hà Nội 1988.
Cuộc thi Hoa Hậu Hà Nội năm 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Tết 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Hà Nội 1986/1990
Hà Nội 1986/1990
Hà Nội 1986/1990
Hà Nội ảnh chụp từ trên không, 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Hà Nội, Tết 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Những bức ảnh của nhiếp ảnh gia David Alan Harvey ở Việt Nam 1989 là vào thời kỳ Đổi Mới – một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa… Tuy nhiên chính trị không có những thay đổi nhiều so với Kinh tế.
Hà Nội, Tết 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Tết 1989, trẻ con nghịch pháo. Ảnh: David Alan Harvey
Một đám cưới. Hà Nội 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Trong đêm giao thừa, người Việt xưa thường đi lễ chùa để cầu xin đức Phật ban cho điều tốt lành trong năm mới. Sau đó, trong đêm tối trên đường về sẽ bẻ một cành lá cây nào đó, gọi là hái lộc. Nếu bẻ được một cành lá tươi tốt, đầy đủ thì đó là điềm may mắn cho suốt năm tới. Ảnh: David Alan Harvey
Hà Nội 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Hà Nội 1989. Chủ một quán phở và hai con gái. Ảnh: David Alan Harvey
Cầu Long Biên lúc hoàng hôn, những người dân đang về nhà sau một ngày lao động mệt nhọc. 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Một chú chó bị lột da trước khi bị vào nồi. 1989Ảnh: David Alan Harvey
Một cậu bé trên cầu Thê Húc. Hà Nội, 1989. Ảnh: David Alan Harvey
Cô dâu chú rể trước giờ động phòng. Hà Nội 1989. Ảnh: David Alan Harvey