Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Tháng 6 năm đó vua Bảo Đại ban hành chương trình cải cách giáo dục. Chương trình này do giáo sư Hoàng Xuân Hãn, bộ trưởng Giáo dục và Mỹ Thuật thời đó chủ trì.
Chương trình được soạn thảo chưa đầy ba tháng với một hội đồng biên soạn đâu đó chỉ gồm mười ba hay mười bốn vị chuyên viên. Chẳng cần dạy nháp hay dạy thí điểm, cũng chẳng cần chờ xin ý kiến thủ tướng (lúc đó là ông Trần Trọng Kim) hay hoàng đế gì cả, chương trình cứ thế đem áp dụng luôn, và áp dụng ngay cho khóa thi tú tài năm đó, niên khóa 1944-1945. Đây là khóa thi tú tài bằng tiếng Việt đầu tiên của chương trình trung học Việt Nam, trước đó học và thi tú tài bằng tiếng Pháp. Chương trình này được giới chức sau này gọi là “chương trình Hoàng Xuân Hãn” để ghi nhớ người chủ trì.
Những tháng đầu tiên sau tháng 8.1945, cũng như trong giai đoạn kháng chiến, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng áp dụng chương trình Hoàng Xuân Hãn có sửa đổi lại đôi chút để đáp ứng với tình thế “cấp bách và khó khăn”. Mãi tới niên khóa 1951-1952 mới thay thế bằng chương trình phổ thông chín năm, và từ niên khóa 1956-1957 đổi thành mười năm. Sau năm 1975, miền Bắc mới quay lại chương trình mười hai năm từ niên khóa 1981-1982.
Ở các vùng Pháp chiếm cũng áp dụng chương trình Hoàng Xuân Hãn, sửa đổi đôi chút ở các môn Việt văn, sử địa, công dân, còn các môn khoa học thì vẫn giữ nguyên
Sau năm 1954, ở miền Nam, chương trình Hoàng Xuân Hãn vẫn được xem là bộ khung để sửa đổi, cập nhật, kể cả các môn khoa học cho phát triển chung. Hệ mười hai năm vẫn duy trì cho bậc giáo dục phổ thông, phân ban ở đệ nhị cấp (cấp ba bây giờ), với ban A (Lý hóa vạn vật), ban B (Toán lý hóa), Ban C (ngoại ngữ văn chương – triết cho lớp 12), và ban D (cổ ngữ và văn chương – triết). Điều thấy rõ là thể chế thi cử ngày càng nhẹ. Mới đầu là bỏ thi vấn đáp ở kỳ thi trung học đệ nhất cấp (cấp hai bây giờ) từ năm 1959, và rồi bỏ luôn thi vấn đáp ở đệ nhị cấp (cấp ba).
Kể từ niên khóa 1962-1963, miền Nam bỏ thi tiểu học. Năm 1967 bỏ thi trung học đệ nhất cấp (tốt nghiệp cấp hai bây giờ), và sau cùng năm 1974 bỏ luôn thi tú tài 1 (lớp 11).
Như vậy từ niên khóa 1973-1974, từ lớp một cho đến lớp mười hai học sinh chỉ còn qua một kỳ thi duy nhất, đó là thi tú tài, và thi bằng trắc nghiệm khách quan cho tất cả các môn. Học bao nhiêu môn, thi bằng đó môn. Mỗi môn có bao nhiêu chương, bao nhiều bài phải thi hết, không kỳ kèo thêm bớt gì cả, và phải thi đủ hai ngoại ngữ. Hệ số các môn thi tùy vào phân ban mà học sinh chọn, thấp nhất là hệ số 1, và cao nhất là hệ số 5. Chẳng hạn theo ban toán, thì toán hệ số 5, lý hóa hệ số 4, triết hệ số 2… còn theo ban văn chương thì môn triết hệ số 4, toán hệ số 1… Điều đáng chú ý là môn sử – địa – công dân thi chung và tính hệ số 3 (chấm trên 20, tổng cộng tối đa 3 môn này là 60 điểm). Đừng tưởng ta đây giỏi toán mà đã ngon, gãy môn triết, sử địa, công dân chắc gì đã lấy nổi bằng tú tài.
Xét theo kết quả thi cử, học sinh thời đó chắc là học dốt hơn học sinh bây giờ, vì thi tú tài chỉ đậu cỡ 15-20 %. Trong đó hơn 80% là đậu thứ (điểm trung bình tương đương 5/10 bây giờ), còn đậu hạng bình thứ (6/10), bình (7/10), và ưu (8/10) là hàng hiếm.
Tính ra chương trình Hoàng Xuân Hãn soạn thảo trong ba tháng với mười ba chuyên viên “thọ” được chín năm, nhưng ảnh hưởng của nó trên hệ thống giáo dục ở miền Nam kéo dài mãi đến 1975. Không biết nên gọi đó là cuộc cải cách hay cách mạng giáo dục? Khi chương trình được áp dụng, chẳng thấy ai ý kiến ý cò gì, hay là tại hồi đó không có tự do báo chí? Làm bằng cái tâm, bằng cả tấm lòng với sự nghiệp giáo dục, ai mà nói nổi.
Bây giờ, soạn lại sách giáo khoa thì cứ soạn, đậu tú tài thì vô tư (trên 90%), nhưng triết lý giáo dục là gì nhỉ?
————–
(*) Một số dữ liệu trong bài có tham khảo trong quyển “ Khoa cử và Giáo dục Việt Nam” của Nguyễn Q. Thắng, NXB Văn hóa Thông tin, 1994
saigonthapcam.wordpress.com