“Cho con gánh mẹ một lần
Cả đời mẹ đã tảo tần gánh con…”

Mỗi khi nghe lời bài hát “Gánh mẹ” được nhiều ca sỹ thể hiện thành công, lòng ta không khỏi bùi ngùi xúc động. Thương mẹ và bao người phụ nữ Việt từ thuở Âu Cơ đã một đời tần tảo vì chồng con. Thương quá khứ quê mình một thuở lam lũ nhọc nhằn. Nhớ những kỷ vật, kỷ niệm ngọt ngào đã im lìm dĩ vãng như đôi quang gánh mẹ ngày xưa…

Hình ảnh tuyệt đẹp về phụ nữ Việt và đôi quang gánh

Quang gánh ngày xưa nhà nào chả có, thậm chí vài ba đôi; người nào chẳng biết; dẫu mỗi quê một tên gọi khác nhau nhưng đều là thứ gần gũi, gắn bó như là một chứng tích, một huyền thoại nhưng nay đã chẳng còn. Vật dụng gắn liền là thế nhưng chẳng ai biết được hoặc cất công tìm hiểu nó có nguồn gốc từ đâu, ra đời từ khi nào. Có lẽ vật dụng thô sơ mà tiện lợi, gần gũi và yêu thương này ra đời từ khi con người chuyển từ loài vượn tinh khôn biết di chuyển bằng hai chi sau, khi ngọn lửa xuất hiện trên trái đất, khi người ta phải di trú trong các hang động trong sự đổi thay của thời tiết… Quang gánh để gánh những thứ tài sản cần thiết, để gánh cả những vất vả kiếp người.

Quang gánh gắn liền với hình ảnh của những bà, những mẹ, những chị ngày xưa. Bất kể nắng mưa, bất kể sớm trưa trên con đường làng, ngõ quê hun hút; bước chân liêu xiêu, tiếng kêu kẽo kẹt, dáng lưng còng trĩu nặng; mẹ đang gánh cả giang sơn nhà chồng. Dáng lầm lũi ấy bất chợt ta nhớ lại rưng rưng vẻ đẹp nao lòng về sức mạnh phi thường của người phụ nữ Á Đông bắt nguồn từ tình thương vô bờ bến.

Đôi quang gánh được làm ra cũng khá công phu và tốn thời gian. Nó gồm hai bộ phận là đòn gánh và quang gióng. Đòn gánh được làm từ những đoạn gốc tre già và thẳng. Tre chặt ra, đem ngâm dưới bùn vài tháng , sau đó vớt lên đem phơi khô và hun khói để tăng thêm độ chắc dẻo, chống mối mọt. Thân đòn gánh bẹ lớn để vừa để phân tán lực đều ra cho vai đỡ đau vừa đảm bảo khả năng chịu lực, lướt dẻo mà không gãy. Hai đầu đòn gánh người ta chừa mắt tre để khắc mấu hoặc đóng hai chiếc dăm tre để cố định đôi quang gióng. Đôi quang gióng chủ yếu làm bằng chất liệu dây mây và sau cải tiến hơn là dây thép. Để làm được đôi quang gióng đẹp, bền, chắc phải là những người tài hoa trong làng mà nay người ta thường gọi là nghệ nhân. Mỗi quang gióng gồm bốn gióng, mỗi gióng là hai sợi mây. Đầu gióng sẽ kết chụm lại để đưa đòn gánh vào. Phía dưới quang gióng là một vòng tròn đế cũng được làm từ tre già uốn cong. Đường kính vòng đế to nhỏ tùy thuộc vào loại gánh gì nhưng thông thường khoảng từ 30 – 40 cm. Nếu chiều dài đòn gánh người ta ước lượng với chiều dài sải tay của người gánh thì chiều cao của quang gióng lại phụ thuộc chiều cao con người để khi gánh đi không quết đất khó di chuyển.

Quang gánh là vật dụng phổ biến ở mọi vùng miền, mọi công việc mà ta dễ dàng bắt gặp từ nông thôn đến thành thị. Là những người nông dân chân lấm tay bùn gánh mạ, gánh phân ra đồng, gánh lúa trở về. Là những cô thôn nữ gánh cỏ đầy đầu gióng trong buổi nông nhan, gánh nước giếng làng dưới đêm trăng thanh. Là mẹ gánh khoai, gánh rau ra chợ lúc nặng trĩu khi nhẹ tênh mà tuổi thơ có những lúc ta mòn mỏi đứng trông nơi đâu ngõ. Gánh hàng mẹ về buổi chợ giáp tết ta ngỡ như mẹ gánh cả mùa xuân. Là những diêm dân nhọc nhằn gánh muối trong chập choạng bóng chiều trên bờ biển. Là gánh sắn (mì), gánh ngô bàn chân bấm toe máu trên con đường mòn gập ghềnh đá núi cao nguyên. Là gánh cỗ đơm cơm đem đến từ đường trong ngày lễ tết. Là gánh hàng rong cùng tiếng rao trầm buồn một sớm mai nào nơi hẻm phố. (Ta chợt bâng khuâng nhớ thuở học ở Huế, có phải đời sống sinh viên ngheo hay đồng cảm với những bà, những mệ mà thường hay sà vào những gánh hàng rong nào bún Huế, nào cơm hến, nào chè thập cẩm… Gánh nào cũng khiến ta ngỡ như hơn tất thảy những sơn hào hải vị trong đời)… 

Mẹ gánh quanh năm suốt tháng. Đòn sờn bóng mồ hôi, quang mòn, vai mòn; đường làng, đồng đất, triền đê, lối chợ… đều hằn dấu chân in nét tảo tần đôi quang gánh mẹ. Xưa ta cũng tập tành học gánh. Đi được một quãng đường mà hết trở vai này đến vai kia. Có lúc mệt quá lại gánh ngang; mẹ nhìn ta cười bảo: “- Giống thằng Bờm vác tre!”. Có khi gánh niềm vui, có lúc gánh nỗi buồn, có lúc gánh nhọc nhằn hạnh phúc, lúc lại gánh nhẹ bẫng nỗi đau. Người xưa bảo: “người làm sao của chiêm bao làm vậy”; nhìn dáng đi trên vai trĩu đôi quang gánh mà nhà ai chọn được dâu hiền.

Xã hội phát triển cùng với những máy móc, phương tiện thay thế cho sức người ra đời. Đôi quang gánh nằm im lìm trên gác bếp nhẹ nhõm khi đã hoàn thành sứ mệnh, đôi lúc cũng thở dài tiếc nuối nhớ về thuở vàng son. Rồi cùng đôi quang gánh, những nong nia, rổ rá, thúng mủng, giần sàng cũng đã không còn hiện diện trong đời sống thường nhật. Nếp xưa dĩ vãng, có còn ai thấy tiếc nhớ khi chợt nhận ra, quang gánh đâu chỉ là vật dụng chuyên chở hàng hóa mà nó còn chở cả tâm hồn người Việt nơi làng quê. Đôi quang gánh ngày xưa đã gánh gồng cả năm tháng đời người.

Thỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp những đôi quang gánh mới tinh trong những nhà hàng, khách sạn như cách để người ta muốn thu hút “thượng đế” bằng cảm giác thôn dã, chân quê. Ngắm những đôi quang gánh mô hình ấy, liệu có ai nhớ về, chợt thương về những thân cò, thân vạc chốn quê xưa. Kỷ niệm ùa về để mà thương một thời khó nhọc, mà biết nâng niu những những gì mình đang có hôm nay. Kỷ niệm ùa về rồi lòng ta chợt nhớ một thời: 

Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên (Ca dao)   

TH/ST