Có người bảo, thời bao cấp, quanh năm là lo toan, vất vả, chỉ 3 ngày Tết là sung túc, nhàn nhã. Thế nhưng khi quá khứ đã ở lại sau lưng, trong tâm trí nhiều người bất chợt trào dâng nỗi nhớ, kỷ niệm của một thời gian khó lại ùa về…

Nhớ về thời bao cấp: Niềm vui sướng của ngày Tết

Sự kiện sung sướng

Trong vô số sự kiện có thể gây sung sướng thời bao cấp, thì Tết là sự kiện sung sướng hơn cả. Nhà tôi, cứ đến ngày ông Công ông Táo lên chầu giời là thế nào mẹ tôi cũng háo hức hỏi bố tôi năm nay được phân bao nhiêu cân thịt.

Câu nói ghi dấu một thời

Buồn như mất sổ gạo; Mặt nghệt như mất sổ gạo; Mua được gạo không mốc sướng lâng lâng cả ngày;

Một trăm lời nói không bằng ống khói Honda;

Bây giờ yêu nghĩa là vèo xe cup/Xe đạp anh xịt lốp cả tư mùa (Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)

Một yêu anh có may ô/Hai yêu anh có cá khô ăn dần;

Một yêu anh có Sen-ko; Hai yêu anh có Pơ-giô cá vàng; Ba yêu nhà cửa đàng hoàng; Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng Thủ đô;… Bảy yêu anh vững tay nghề; Tám yêu sớm tối đi về có nhau; Chín yêu gạo trắng phau phau; Mười yêu nhiều thịt ít rau hàng ngày. (Bài thơ 10 yêu, lược bớt một số câu).

Ngày thường, theo chế độ tem phiếu, mỗi cán bộ, công nhân được phân 3 lạng thịt/tháng. Tết đến, ngoài chế độ cao hơn (5 lạng/khẩu) thì hầu như cơ quan nào cũng mổ lợn chia cho cán bộ. Cơ quan bố tôi dịp Tết cho đến 5 – 7 cân thịt, có năm còn cho tới 15 cân. Năm đó, quê ngoại tôi cho thêm mấy con gà, vậy là nhà tôi ăn Tết to.

Khi Tết đến, nỗi lo lắng chiếm nhiều thời gian của các gia đình nhất là nồi bánh chưng, thường là do các gia đình tự gói. Nhà tôi hay gói bánh chưng vào 27 Tết. Mỗi lần đến ngày này tôi lại lăng xăng trải chiếu, đặt mâm, chọn trong đống lá dong vài chiếc lá bé xíu để tự gói cho mình một chiếc bánh. Lúc đậu đã đồ xong, thịt đã ngấm đủ hành, mắm, hạt tiêu, gạo sẵn sàng trong rá là lúc cả nhà bắt tay vào “sản xuất”.

Bố tôi gói bánh rất nhanh, lại vuông và chặt tay lắm, hơn chục cân gạo mà loáng cái đã xong. Đến khoảng 5 giờ chiều, bố tôi cho bánh vào nồi, nới rộng mấy ông đầu rau, nhét vào những thanh củi to như ống chân rồi “khai hỏa”. Có lần vừa châm lửa bố vừa vui vẻ hát bài “Nổi lửa lên em” khiến chúng tôi cười ngặt nghẽo.

Bánh chưng được luộc đun từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau, bố tôi bảo ít nhất cũng phải luộc đủ 12 tiếng bánh mới dền, không bị lại gạo. Đêm luộc bánh chưng, chị em tôi thức đến 2 – 3 giờ sáng rồi ngủ ngay trên chiếc chiếu trong bếp.

Cũng có năm nhà tôi và nhà chú thím hàng xóm luộc bánh chung. Gọi là chú thím nhưng nhà tôi và nhà chú thím ấy không có quan hệ họ hàng gì. Những năm đó, dù người tứ xứ đã bắt đầu đổ về Hà Nội nhưng chất làng xã còn rất đậm, vẫn gọi nhau bằng những danh xưng như người trong một gia đình. Mỗi khi nhà ai có việc gì là hàng xóm lăn vào giúp, coi như việc nhà mình.

Khi luộc bánh chung thì phải dùng sợi lạt đánh dấu để tránh nhầm lẫn, bởi mỗi nhà gói bánh theo một chất lượng khác nhau. Bánh nhà nào có nhiều thịt, đậu được coi là niềm tự hào của gia chủ, vì nó chứng minh cho sự khá giả.

Một thời quy gai xốp

Ngày thường, trẻ con chúng tôi chỉ quanh quẩn với kẹo lạc, kẹo vừng, chè lam, kẹo bột. Tết đến, thứ bánh không thể thiếu là quy gai xốp. Thực ra bánh quy gai và quy xốp là hai loại khác nhau, nhưng vì thường xuất hiện cạnh nhau nên người ta quen miệng gọi bánh quy gai xốp. Bánh quy gai trông như chiếc đũa cả, dài chừng 6 cm, rộng 2cm, ở một mặt bánh có những hàng gai đâm lên tua tủa. Còn bánh quy xốp có nhiều hình thù khác nhau, nhưng làm cùng chất liệu (đường, trứng, bột mì) như quy gai.

Thường thì trước Tết khoảng 15 ngày, mấy mẹ con tôi rồng rắn mang nguyên liệu ra tiệm làm bánh của hợp tác xã, để đó rồi hôm sau ra lấy bánh về. Nhưng nhiều người khác thì cẩn thận hơn, họ chờ làm xong thì lấy luôn. Có thể do người ta nghe nơi này, nơi kia bị làm “nhầm” bột hoặc thiếu đi chút ít đường, trứng nên các bà nội trợ áp dụng phương châm “cẩn tắc vô áy náy”. Bánh mang về rồi, mẹ tôi lấy giấy báo ủ kỹ, cho vào trong những chiếc thùng tôn đựng gạo. Mẹ bảo như thế bánh mới giòn.

Đến ngày 30 Tết, khi nhà cửa đã được quét dọn, bày biện tươm tất, lúc đó quy gai xốp mới được cho vào những chiếc đĩa xinh xinh trên bàn. Mẹ bảo, ăn bánh vào lúc giao thừa mới ngon, nhưng chị em tôi thì đã xơi trộm ngay từ khi mang về. Mồng một Tết, nếu có trẻ con hàng xóm sang chơi, ngoài 5 xu, 1 hào mừng tuổi, thế nào bố mẹ tôi cũng đưa kèm thêm dăm ba chiếc quy gai xốp. Dù trong mớ bánh có những chiếc nướng quá lửa, cháy đen cả cạnh, nhưng ăn sao vẫn thấy ngon thế, thơm thế.

Mỗi năm Tết về là chị em tôi lại tất bật với quần áo, giày dép. Theo tiêu chuẩn, bố và bà nội tôi được 10 mét vải xanh chéo/năm, mẹ thường dùng vải này may quần cho chúng tôi mặc đi học. Còn đến Tết, mẹ mua vải ngoài thị trường, mịn và đẹp hơn để may cho chị em tôi những bộ cánh mới. Sau những năm 1980, bố tôi hay phải đi công tác miền Nam nên Tết đến chị em tôi còn được bố mua cho quần bò Levis, dép sa – pô, những thứ trong mơ.

Giấc ngủ tuổi thơ

Khi trăm thứ bà rằn cho một cái Tết hoàn tất, cả nhà háo hức trong bữa cơm chiều 30 Tết. Còn đến lúc ba chiếc kim đồng hồ chuẩn bị chập vào con số 12, chị em tôi vừa xem mẹ cúng giao thừa vừa nóng lòng chờ bố về xông đất. Khi đã lớn hơn, cũng có năm giao thừa tôi đi chơi cùng đám bạn. Ngày đó quán xá rất ít nên mọi cuộc đi chơi đều dẫn đến Hồ Gươm. Tại đây chúng tôi chụp ảnh, xong rồi làm vài con mực với món tương ớt cay xé lưỡi.

Mồng một Tết, chị em tôi dậy từ rất sớm để nhận tiền mừng tuổi từ bố mẹ và chờ… khách đến. Tuy nhiên, khi có khách, chúng tôi biết ý “đi chỗ khác chơi”, chỉ lúc các cô, chú gọi mới bẽn lẽn lại gần, dù đã như mở cờ trong bụng. Ngày ấy, cha mẹ rèn con nghiêm lắm, cha mẹ chưa cho phép, cấm có dám cầm thứ gì của ai.

Hết 3 ngày Tết, mọi thứ nhanh chóng quay trở lại nhịp sống thường ngày, người lớn đi làm, trẻ con đi học, ra đường lại thấy quần xanh chéo, xe đạp, cặp lồng tung tăng khắp phố, trong ngõ xóm cơm rang lại nhảy lách tách trong chảo, tất cả lại cần mẫn trong suốt một năm để đón đợi cái Tết năm sau, với bánh chưng, thịt mỡ dưa hành, túi quà Tết, quy gai xốp theo tiêu chuẩn nhà nước.

Năm 1986 – năm đầu tiên chấm dứt thời kỳ bao cấp, dường như đã có không ít người bỡ ngỡ. Mấy chục năm ăn có nhà nước lo, Tết có nhà nước chu cấp đã trở thành một thói quen, không dễ gì từ bỏ ngay được. Thế nhưng sự chống chếnh ấy cũng nhanh chóng qua đi, giờ đây nếu nói đến cảnh xếp hàng từ nửa đêm sắm đồ Tết hẳn nhiều người sẽ thấy rất khôi hài. Tất cả những câu chuyện đó đã trở thành quá vãng, thành kỉ niệm mang nhiều sắc thái, chua xót lẫn ngọt ngào, mừng vui hòa tiếc nuối.

Một mùa xuân lại về, tôi nhớ cái cảm giác se lạnh, mưa phùn giăng giăng ngoài sân, da thịt tôi cảm nhận được hơi ấm từ ngọn lửa, từ nồi bánh chưng đang sôi lục bục và dường như từ cả những câu chuyện mà bố mẹ tôi nói với nhau…

Nguyễn Đức

GĐXH