Đồng bằng sông Cửu Long, phần đất cuối cùng của tổ quốc, chặng đường chót của cuộc Nam tiến mở rộng cõi bờ, nơi có điều kiện khí hậu thuận lợi, đất đai màu mỡ, thường được nhắc đến như là kho lương thực của cả nước. Lúa vàng nặng trĩu trên đồng ruộng, cá tôm dẫy đầy trên sông rạch… Ngoài cá lớn, tôm to còn có lươn dài, ếch bự, rùa vàng…Đời sống vật chất phong phú, sung túc.

Nhưng khi nói chuyện văn chương, thi phú, phần đất phía cực Nam này ít được nói đến so với vùng phía Bắc. Sự việc tương đối dễ hiểu. Lịch sử văn minh Việt Nam ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ được trên dưới bốn thế kỷ, nên đóng góp của cư dân vùng nầy vào kho tàng văn chương phải giới hạn, khiêm tốn nếu đem so sánh với chiều dài văn hiến bốn ngàn năm chung của cả dân tộc. Sự giới hạn, khiếm tốn của văn chương truyền khẩu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long một phần còn do việc ghi chép chưa đầy đủ, hệ thống hóa chưa hoàn hảo nên chưa được phổ biến sâu rộng trong dân gian. Dù vậy, ngoài tính chất thừa kế và phát huy, những gì còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy nhiều điều mới lạ, thể hiện tính chất đặc thù của môi sinh cùng với đời sống dân cư trong vùng.

dong bang song cuu long
Ca dao, dân ca vùng đồng bằng sông Cửu Long, một cách tổng quát, là đề tài khá rộng lớn, bao hàm nhiều lãnh vực khác nhau. Bài này được giới hạn trong phạm vi hai yếu tố thiên nhiên quan trọng đã là môi trường xúc tác cho việc sáng tác: đất và nước. Đất ở đây là nơi có ruộng, vườn, rừng tràm, rừng đước. Còn nước là sông cái, sông con, ao hồ, kinh rạch… Như vậy vẫn còn khá rộng. Xin giới hạn thêm, trong một trường hợp cụ thể, rõ ràng: chỉ ghi lại một số ca dao, dân ca cận đại liên quan tới môi trường sông nước, không do thiên nhiên tạo ra mà do con người. Đó là những kinh rạch nhân tạo, đầu tiên được đào bằng tay chân, về sau đào bằng máy và gọi là kinh xáng.Những kinh đào tay dùng toàn sức người và dụng cụ thô sơ như xuổng, len, cuốc… Công việc vất vả, mất nhiều thời giờ lại tùy thuộc thời tiết. Kinh loại nầy thường ngắn như kinh Thủ Thừa nối liền hai nhánh sông Vàm Cỏ Tây, dài 9 cây số do ông Mai Văn Thừa xuất tiền mộ phu. Kinh Ba Thê, còn gọi là kinh Núi Sập (Thoại Sơn) hay Thoại Hà, do Nguyễn Văn Thoại đốc suất, rộng khoảng 30m, dài 32 km, nối liền một số thủy đạo giữa hai tỉnh Long Xuyên Rạch Giá, đào mất một tháng ( năm 1818), sử dụng 1500 dân làm xâu. Kinh Vĩnh Tế (Vĩnh Tế hà) qui mô và quan trọng nhất, do Tổng Trấn Gia Định Lê Văn Duyệt đề nghị với triều đình Huế, cũng được Trấn Thủ Vĩnh Thành Nguyễn Văn Thoại trực tiếp đôn đốc. Kinh rộng 20m, dài 72 Km, dọc theo biên giới Cao Miên từ sông Hậu đến cửa Giang Thành Hà Tiên, sử dụng hơn 80 ngàn dân làm xâu, ròng rã 5 năm từ Tháng Chạp năm 1819 đến tháng 5  năm 1824. Việc đào kinh Vĩnh Tế đã làm hàng trăm dân phu thiệt mạng do nặng nhọc, nền đá cứng, sơn lam chướng khí, thời tiết khắc nghiệt, muỗi, vắt, ác thú… cùng với số người bỏ trốn, chết trong rừng hay vô bụng cá mập Vàm Nao.
Về sự lao khổ của dân phu đào kinh có thể dẫn chứng bằng đoạn vè sau đây:

…Chia ba người một thước
Đào sâu, xuống nước
Hai thước sáu ba
Bề ngang đào qua
Là sáu thước chẵn
Việc mần mệt nặng
Kẻ cuốc người rinh
Chừa hai bên kinh
Đắp hai đường lộ
Việc mần cực khổ
Mệt đổ hết hơi
Không dám nghỉ ngơi
Cực đà quá cực
Phần thời nóng nực
Lại không nước uống…

Dù gian lao, khó nhọc, hao tốn sinh linh, nhưng việc hoàn thành kinh Vĩnh Tế quả có đem lại nhiều lợi ích thiết thực và lâu dài về quốc phòng (án ngữ biên giới), canh nông (dẫn nước phèn ra vịnh Thái Lan, nước ngọt từ sông Hậu vô ruộng), mua bán, giao thông… dân chúng tự hào  về kinh Vĩnh Tế qua câu tục ngữ:Mắm Châu Đốc, dốc Nam Vang, bò Châu Giang, kinh Vĩnh Tế.

Trai gái dùng con kinh làm đề tài đối đáp. Gái hò:

Hò.. ơ.. ơ Đường từ Châu Đốc Hà Tiên
Đường nào chạy thẳng nối liền hai nơi
Đất nào lắm dốc nhiều đồi
Đèn nào cao nhứt người người đều nghe
Sông nào tấp nập thuyền bè
Hồ nào với biển cặp kè bên nhau
Trai nào nổi tiếng anh hào
Anh mà đối đặng má đào em xin trao… ơ…

Trai đáp:

Hò.. ơ.. ơ.. em ơi!
Đường từ Châu Đốc Hà Tiên
Có kinh Vĩnh Tế nối liền hai nơi
Đất Nam Vang lắm dốc nhiều đồi
Đèn cao Châu Đốc mọi người đều nghe
Sông Cửu Long tấp nập thuyền bè
Biển Hồ hai chữ cặp kè bên nhau
Trai Việt nam nổi tiếng anh hào
Anh đà đối đặng, vậy má đào em trao đây …ơ…Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu 20, một hệ thống kinh rạch đã hình thành khắp nơi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng phương tiện cơ giới  gọi là xáng. Thời đó kỹ thuật móc đất còn thô sơ, chưa có xáng thổi, chỉ có xáng cạp. Xáng cạp gồm hai miếng sắt rất nặng hình cong như hai cái muỗng, đưa lên cao, mở rộng ra, hay đổi vị trí, buông xuống, khép lại… bởi cần cẩu và dây cáp, động tác cạp đất của xáng tương tự cấm cái muỗng múc. Sức làm việc của xáng nhanh chóng, mạnh mẽ, tương đương với cả trăm nhân công, nên để chỉ người làm biếng, ăn nhiều, ăn nhanh, làm ít, chậm chạp, thời ấy có câu:

Ăn như xáng múc
Làm như lục bình trôi

Chuyên viên trắc địa phóng đường trước, xáng theo sau, rầm rộ cả đoàn người và máy móc. Công trường xáng cạp giống như cái chợ nhỏ lưu động. Đất mới đổ lên hai bên bờ kinh, chưa kịp khô đã có nông dân và gia đình bơi xuồng, chèo ghe tới, giành địa thế kinh sâu nước chảy ngã ba (ngã năm vàm xáng) để cất nhà, bắt đầu lập nghiệp dẫu rằng chỉ cách chưa đầy trăm thước phía trong vẫn còn khung cảnh hoang dã với đồng chua, rừng tràm dày đặc cỏ, gai.

Rồi kinh xáng hoàn thành. Trên con kinh xanh dài mút mắt bắt đầu có tiếng tàu Tây chạy xập xình. Những đêm trăng thanh gió mát, tiếng hò giao duyên văng vẳng:Hò hơ… ơ… ơ…
Kinh xáng mới đào
Tàu tây mới chạy
Thương thì thương đại
Bớ điệu chung tình
Chớ con nhạn bay cao khó bắn
Còn con cá ở ao quỳnh ơ ơ khó câu!

Hò hơ ơ… ơ…
Kinh xáng mới múc
Chiếc tàu xà lúp nó chạy cũng thường
Em muốn ăn con lươn nấu với thịt sườn
Muốn về Trà Ban Lớn nọ ơ ơ ờ…
Cho tiện đường thăm anh ơ…

Có hai loại kinh xáng ở đồng bằng sông Cửu. Thứ nhất là kinh xuôi, thường dài, rộng, giúp nước lưu thông giữa đồng ruộng và sông lớn hoặc vịnh Thái Lan như kinh xáng An Long; kinh Tháp mười thuộc tỉnh Kiến Phong (Cao Lãnh) đổ nước ra Tiền Giang; kinh Tri Tôn thuộc tỉnh Châu Đốc; kinh Ba Thê-Mai Dung, Rạch Giá Long Xuyên, Rạch Giá Hà Tiên, Cái Sắn thuộc địa phận các tỉnh An Giang và Kiên Giang, kinh Cái Lớn, Long Mỹ, Quan Lộ – Phụng Hiệp thuộc các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Chương Thiện, Bạc Liêu… đổ nước ra sâu Hậu hoặc vịnh Thái Lan.

Thứ hai là kinh ngang, thường hẹp, ngắn, như cây cầu nối những kinh xuôi lại với nhau.
Hệ thống kinh xuôi và kinh ngang dày đặc như lưới nhện. Chỉ riêng trong tỉnh Phong Dinh, từ Bắc xuống Nam bên hữu ngạn sông Hậu đã có nhiều kinh xuôi lớn: Kinh Thị Đội từ Thới Lai đi Rạch Giá; Kinh Saintenoy theo tuyến đường Rạch Gòi Phụng Hiệp Sóc Trăng; kinh Lacote từ Rạch Gói đến Cái Dứa… Và chỉ riêng kinh Xà No từ rạch Cần Thơ (Cái Răng) chạy qua chợ Vị Thanh tỉnh Chương Thiện, ăn thông với kinh Ô Môn và nhiều kinh rạch của Rạch Giá đã là một công trình lớn, bề mặt 60 m, đáy rộng 40m, dài gần 40 km.
Nước sông Cửu Long theo kinh xáng vô ruộng; nước phèn, nước tù theo kinh xáng ra biển. Những khu vực trước kia là đồng chua đầy năng, lác, đế, sậy, là rừng tràm hoang vu… trở thành đồng lúa phì nhiêu, vườn cây ăn trái xanh tốt, năng suất lúa gia tăng gắp hai, ba lần. Song song với đời sống vật chất ngày thêm dồi dào, dân cư dọc theo kinh xáng trở nên văn minh hơn, đời sống tinh thần cao hơn. Họ tổ chức những cuộc hát hò, đối đáp giữa thanh niên và thiếu nữ trong vùng do hương chức hội tề bô lão làm giám khảo. Có nơi tổ chức lớp dạy hò, dạy hát đối. Thầy dạy hò ở Cần Thơ (Long Tuyền, Cái Tắc, Phong Điền) nổi tiếng có tài. Ca dao, câu hò, lời đối đáp mang địa danh mới, chuyên chở sinh hoạt và tâm tình, suy nghĩ… của cư dân trong vùng. Sau đây là một bài tiêu biểu theo điệu Lý Ngựa Ô:

Ngó kia mà ngó lên vàm xáng ý xáng Xà No. Dưới sông đông đảo, trên bờ lạo xạo lại có chiếc tàu đò. lăng xăng chạy xuống Sóc Trăng, chạy về Long Mỹ. Tình nhân ôi! Đạo vợ chồng anh không nghĩ thì thôi!

Cũng có những câu ca dao hóm hỉnh, cợt đùa hay lãng mạn, tình tứ:

Chiều chiều ra đứng bờ kinh
Gặp người góa bụa tui rinh vô nhàAi về để áo lại đây
Khuya nay em đắp, gió tây lạnh lùng.

Gió lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả  áo anh về đi học kẻo trưa

Sự hấp dẫn muôn đời của ca dao và dân ca vẫn luôn là những mẩu đối đáp qua lại giữa trai và gái như đoạn hò theo điệu huê tình sau đây:

Ơ ơ ơ…
Đèn treo dưới xáng
Tỏ rạng bờ kinh (ờ)
Em có thương anh
Em nói cho thiệt tình (ờ)
Để anh lên xuống
ơ ơ chớ một ơ ơ mình ờ bơ vơ

Đối với sự mở lời của một chàng trai như trên, các cô có nhiều cách trả lời. Nếu muốn dùng thời gian để thử thách, cô nàng ỡm ờ:

Đèn treo dưới xáng
Tỏ rạng bờ kinh
Đường Bình Thủy lưu linh
Đáo tại Long Tuyền
Xin anh giữ dạ, chịu phiền đôi năm

Bình Thủy là một chợ nhỏ nằm trên đường liên tỉnh Cần Thơ đi Long Xuyên, thuộc xã Long Tuyền. Cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa, con rồng vàng đất Đồng Nai thuở sanh tiền sống tại đây và khi qua đời phần mộ cũng tại nơi này.

Nếu như cô thôn nữ thuận tình nhưng còn bị vòng lễ giáo trói buộc, cô sẽ trả lời:

Nay em còn cha còn mẹ
Còn cô còn bác
Nên em không dám tự tung tự tác một mình
Anh có thương em
Xin cậy mai dong tới nói Cha mẹ đành thì em cũng sẽ ưng.

Trường hợp chàng trai miệng ve vãn, tay nắm chân khều, giở trò sàm sỡ, có thể bị cô gái “sửa lưng” như sau:

Cá lý ngư sầu tư biếng lội
Chim phượng hoàng nhớ cội biếng bay
Anh thương em đừng vội nắm tay
Miệng thế gian ngôn dực
Phụ mẫu hay sẽ rầy rà.

Và cũng có trường hợp rất đau, rất ngỡ ngàng, vì nàng đã có chồng:

Nước mắm ngon chấm con cá liệt
Em có chồng rồi nói thiệt anh hay.

Hãy tưởng tượng một đêm trăng trên lòng kinh xáng, hai chiếc ghe, một trước một sau, lướt nhẹ theo dòng nước. Chàng trai phía sau ướm thử mấy câu:

Bớ chiếc thuyền loan
Khoan khoan bới mái
Đặng đây tỏ mấy lời phải trái nghe chơi…Câu hò lơ lửng vì chàng không biết người ở ghe trước là ai, tâm tình thế nào, nhưng thật may, phía trước là một cô gái, cô biết hát hò, lại ngọt ngào hưởng ứng sự giao duyên:

Bớ chiếc ghe sâu,
Chèo mau em đợi
Kẻo khỏi đoạn kinh nầy bờ bụi tối tăm!

Đúng vậy, qua khỏi một đoạn kinh trống trải, nước rẽ vào nhánh sông, rạch nhỏ, những bụi ô rô, cóc kèn, dừa nước, đám bần, đám lác… sẽ làm phong cảnh trở nên tối tăm, hoang dại, Chàng trai một mặt ra sức đẩy mạnh mái chèo, một mặt hò với mấy câu:

Thuyền em đã nhẹ
Chèo lẹ khôn theo
Em ơi, bới mái khoan lèo chờ anh!

Hữu tình ta lại gặp ta, nàng sẵn lòng chờ, một lần nữa dịu ngọt đáp lời:

Đây đã chèo lơi
Đặng chờ người tri kỷ
Gặp mặt chuyện trò cho phỉ ước mơ!

Rồi tiếp theo là biết bao nhiêu lời hỏi đáp, thơ mộng có, mà rắc rối khó khăn cũng nhiều, để thử thách, tìm hiểu tài năng, kiến thức, nết na của nhau, tạo nên biết bao nhiêu bài ca dao trữ tình, bất hủ.

Tâm tình của mấy cô thôn nữ miệt kinh xáng ra sao? Họ muốn anh bạn tình mua sắm cho mình cái gì?Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Anh có thương em xin sắm một con đò
Để em qua lại mua cò gởi thơ.

Tùy người, tùy hoàn cảnh, có thể  được sửa đổi thành:

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Anh có thương em hãy mua chiếc đò
Để em qua lại đặng thăm dò ý anh.

Hoặc:

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.Phong Điền, quận thứ sáu của tỉnh Phong Dinh, nằm trên bờ sông Cần Thơ, gần kinh xáng Xà No với 5 xã Nhơn Ái, Nhơn Nghĩa, Mỹ Khánh, Trường Long, cầu Nhiến là một trung tâm văn minh miệt vườn của miền tây, rất nhiều lúa gạo. Cụ Cử Phan Văn Trị lúc tuổi già có về Nhơn Ái mở trường dạy học, phần mộ còn nơi đây.

Từ khi kinh xáng xuất hiện. lòng sâu, mặt rộng, mỗi mùa lúa, ghe chài của người Hoa ở Chợ Lớn theo kinh Chợ Gạo, đổ xuống miệt sông Tiền, sông Hậu mua lúa đem về chà gạo bán cho dân Sài Gòn và xuất cảng ra nước ngoài. Từ sông lớn, ghe theo kinh xáng Xà No, kinh xáng Thị Đội… tới đồng ruộng tỉnh Cần Thơ, hoặc theo kinh xáng Phụng Hiệp xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu. Ghe chài cần người vác lúa. Thanh niên nông dân ở địa phương phần muốn kiếm thêm tiền, phần nghe đất Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, đèn màu rực rỡ, phố xá tân kỳ, muốn đi chơi cho biết nên xin làm bạn (phu) vác lúa cho ghe chài. Được tin, cô thôn nữ lo lắng, ngăn cản người yêu:Em khuyên anh đừng làm bạn ghe chài
Cột buồm cao, bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi

Lời khuyên thật chí lý, chí tình. Việc vác lúa cho ghe chài quả có nặng nhọc, nguy hiểm, nhưng sự tò mò, óc cầu tiến, máu giang hồ, chí làm trai… đã thúc giục người nông dân trẻ quyết ý ra đi. Chàng đã trả lời nàng cũng thật đầy đủ lý tình:

Lúa mùa rồi trả nợ nần sạch ráo
Để anh đi kiếm chén cháo đổi lấy chén cơm
Trước là cho biết cái xứ Sài Gòn
Sau nữa mua cái quần lãnh với gói bòn bon tặng con bạn tình.

Tặng quần lãnh và bòn bon (một loại kẹo nhỏ nhiều màu, tròn, lớn bằng đầu ngón tay) là cách biểu lộ tình cảm chân thật, đơn giản, không kiểu cách, màu mè của người nông dân trẻ.
Rồi chàng thanh niên theo ghe chài, cả mấy tháng không tin tức, tăm hơi. Cô thôn nữ lòng son héo hắt, nhờ ghe chài gởi lên sài Gòn cho chàng bức thơ như sau:

Trời chiều bóng ngả về tây
Em thương nhớ bạn như cây nhớ rừng
Con kinh xanh nước chảy không cùng
Em đây với bạn, khi nào trùng lai?
Phượng hoàng đậu nhành cẩm lai
Dặn lòng người ngãi chớ sai lời thề
Dường đi kinh xáng dầm dề
Sao anh không gởi thơ về thăm em.

Từ đất sài Gòn hoa lệ, chàng vội vã hồi âm:

Gió lung lay mới biết tùng bá cứng
Lửa có hồng mới rõ thức vàng thau
Thân tầm còn trả nợ dâu
Bước lên ghe mặc ủ gan rầu
Qua đây với bậu hẹn  có ngày gần nhau
Tình qua với bậu làm sao phụ phàng
Sài Gòn thiên hạ nhộn nhàng
Qua đây nhớ bậu, chẳng ham màng cuộc chơi.
Thắm thoát tháng lại ngày qua, thời gian vác lúa cho ông chủ Huê kiều sắp hết, người nông phu trẻ trở lại miền quê kinh xáng với biết bao rạo rực, nhớ thương. Từ trên mui chiếc ghe chài cao nghệu, anh thấy ở đàng xa, thật xa, khói lên mù mịt cánh đồng, khói quyện dãy nhà lá đơn sơ dọc theo bờ kinh xáng…Ngồi trên mui ghe chài lớn
Cầm lái về kinh xáng Thới Lai
Nhìn thấy khói đốt đồng mù mịt lên khơi
Bây giờ anh mới biết chán đời đi ghe
Con gà nó gáy te te
Phải chăng nó kêu người lưu lạc trở về rừng xanh?
Em ơi, chờ cho ghe lúa tới chành
Anh biểu thằng cha tài phú tính sổ để anh dứt nợ ghe chài

Nợ ghe chài đã dứt nhưng con bạn tình đâu chẳng thấy đón, hay nó chờ đợi không nổi, nó bỏ anh rồi? cầm xấp vải Mỹ A trơn với gói bòn bon trên tay, anh đi kiếm bạn.

Thực sự là ghe chài anh về bến, cô bạn tình bạn nghĩa  vội vã ra ngã ba Vàm Xáng, tới  chành lúa đón anh, nhưng dọc đường cô hay tin anh đã bịt mấy cái răng vàng. Cô ghét người bịt răng vàng lắm, mở miệng cười nụ là thấy “vàng khè”, “cười lên đi cho răng vàng sáng chói”. cô lại bị  tụi con nít hát hò chế giễu nên cô bị mắc cỡ và quay về nhà:Cây vông đồng không trồng  mà mọc
Rễ vông đồng đâm dọc trổ ngang
Cám trong nong trộn lẫn trấu càng
Thấy anh đi làm mướn mà bịt răng vàng, thiệt khó coi!

Dân kinh xáng tuy có văn minh hơn hồi ở rừng, ở ruộng, nhưng vẫn còn khá bảo thủ, không ưa những kiểu mới, kiểu Sài Gòn nên họ chê bai, gièm pha hầu hết những cái mới mang từ Sài Gòn về như bịt răng vàng, bao lưới đầu tóc, tô son môi, đeo kính mát…Đầu đeo lưới như chài mắc gốc
Miệng tô son như té dập môi
Mắt đeo kính mát giống như thòi lòi

Thòi lòi đây là một loại cá nhỏ sống trong hang, cạnh bãi bùn. Mỗi khi trời mưa lớn, nước ngập hang, cá thòi lòi bị ngộp chun ra, giương cặp mắt đen to tướng ra nhìn bàng quan thiên hạ. Thấy người đeo kinh mát, dân quê hay ghẹo là bữa nay trời mưa, cá thòi lòi bò ra khỏi hang.

Tuy nhiên, đâu có vì cái chuyện bịt răng vàng lẻ tẻ đó mà con bạn tình bỏ anh. Cô  chỉ mắc cỡ chút thôi, làm nũng để anh tới nhà để thủ thỉ:Quả năm ngăn trong lòng sơn đỏ
Mấy lời anh to nhỏ, em bỏ bạn sao đành!
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu tây liệt máy, em mới đành bỏ anh.

Chàng và nàng có biết đâu, với sức mạnh trường kỳ chiến đấu của toàn dân Việt Nam, quyết giành tự do, độc lập, cuối cùng thực dân Pháp đã rút quân ra khỏi nước ta, khác nào tàu Tây liệt máy, xáng Tây bung vành. Nhưng câu hò tiếng hát của chàng và nàng đã đi vào văn chương bình dân miền kinh xáng trên phần đất cực Nam của quê hương.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi nào có đồng ruộng, vườn cây ăn trái, có sông nước, kinh rạch, có ghe xuồng, chợ búa, khói bếp, ánh đèn… nơi đó có ca dao, câu hò, tiếng hát thắm đượm tình quê. Nơi đây, chốn hải ngoại ngàn trùng xa cách quê hương, với tấm lòng hoài niệm, bằng chủ đích bảo tồn những di sản văn hóa tốt đẹp của cha ông, chúng ta, mỗi người hồi tưởng, góp tay ghi lại, tập trung, hệ thống hóa, như số báo đặc biệt này, những gì còn nhớ được trước khi chúng mờ nhạt theo thời gian.

Hồn quê nương cánh ca dao
Bay qua biển rộng thấm vào tâm cang./.(Trích tạp chí Làng Văn, số 102 tháng 2 năm 1993)
(Xin cám ơn nhà phê bình văn học Trần Văn Nam đã giúp cho TQBT sưu tập bài viết này)

Thư Quán Bản Thảo
Tập 38, Tháng 8, Năm 2009
Hơi thơ đồng bằng
Chủ trương biên tập: Trần Hoài Thư

Thư quán bản thảo là tạp chí thuần túy văn học nghệ thuật.  mong được chia sẻ cùng quí bạn về văn chương chữ nghĩa. Xin đừng thắc mắc tại sao tạp chí TQBT lại sống đến bây giờ, trong khi tạp chí không bán, không nguồn lợi nhuận nào khác như quảng cáo hay tài trợ chẳng hạn. Bởi chúng tôi dùng sức mình, mồ hôi của mình cộng vào những sáng kiến để làm tiết kiệm phí tổn trong việc in ấn. Nếu quí bạn cảm thấy áy náy khi nhận báo, xin gởi về tòa soạn tem thư, tùy tâm, tùy hỷ. Nếu vì lý do gì đó, quí bạn không còn muốn nhận báo nữa, cũng xin mở rộng lòng,  cho chúng tôi biết tin, hoặc bằng cách viết trên bao thư *Return to the sender*  để Sở Bưu diện trả lại chúng tôi, hầu giúp chúng tôi tiết kiệm tiền giấy mực và cước phí ngày càng gia tăng khủng khiếp… Chúng tôi hết sức cám ơn.

Nguyễn Văn Ba (1947-1998)

Theo tongphuochiep