Con thấy người miền Bắc cúng cá chép, người miền Trung cúng cỗ ngựa giấy, còn người miền Nam cúng “cò bay ngựa chạy”, cho con hỏi vậy Táo Quân thích cưỡi con nào nhứt?

Hôm nay là hăm ba tháng chạp, tôi lâm râm khấn vái trước mâm cúng Ông Táo trên bàn bếp: “Dạ con có mấy điều muốn hỏi Ông Táo, xin Ông Táo chỉ đường.” Ngay tối hôm đó, tôi vừa mơ màng ngủ đã thấy ba ông bà phương phi, mặt mũi phúc hậu hiện ra. Bà cụ đứng giữa hiền từ hỏi: “Con muốn hỏi Táo Quân chúng ta điều gì?” Trời ơi, linh quá, tôi mừng rỡ nói: “Dạ có mấy chuyện con thắc mắc về Táo Quân lâu nay mà không biết hỏi ai, giờ con hỏi được không thưa Cụ?” Ba ông bà liền thong thả ngồi xếp bằng trước mặt tôi, rồi Bà Táo cười: “Con hỏi đi.”

Dạ, mà sao lại là “hai ông một bà” chớ không phải “hai bà một ông”?

Tôi: Con thấy người ta nói sự tích Táo Quân hai ông một bà của Việt Nam bắt nguồn từ ba vị thần Thổ Công – Thổ Địa – Thổ Kỳ của Lão Giáo bên Trung Quốc, không biết đúng không?

Bà Táo: Từ khi có lửa thì con người luôn thờ Thần Lửa, người Việt cổ cũng vậy. Chúng ta chính là Thần Lửa, còn sự tích ra sao thì do con người tự đặt ra thôi. Có lẽ người Việt xưa thấy bếp có ba chân nên mới nghĩ ra chuyện có ba vị Táo Quân. Nhờ vậy chúng ta mới được vui vẻ như vầy (cười).

Ông Táo: Mà ta thấy Thổ Công cũng là Thổ Địa thì phải, sao lại là hai người được? Con người hay thích làm mọi thứ thêm phức tạp à?

Tôi: Dạ, mà sao lại là “hai ông một bà” chớ không phải “hai bà một ông”?

Bà Táo: Con quên là ngày xưa người Việt cổ theo chế độ mẫu hệ à? Cho nên một phụ nữ có thể có hai chồng, chứ đàn ông đâu thể có hai vợ. (Hai ông Táo lén lút thở dài)

Tôi: Con hiểu rồi, vì Trung Quốc có chế độ phụ hệ từ ngàn xưa, nên truyền thuyết Táo Quân bên đó là một ông một bà, hay một ông quan và hai tùy tùng, khác với truyền thuyết của người Việt.

Bà Táo:  Học một biết hai, giỏi đa con!

Tôi (cười lỏn lẻn): Dạ con hỏi cái này xin các cụ bỏ quá cho. Sao con thấy người ta cúng Táo Quân áo, mão, hia mà không cúng quần?

Bà Táo: Thiệt ra chúng ta ngồi suốt ngày trong bếp, ở gần lửa nên nóng muốn chết thì mặc quần áo làm gì. Sau này người Việt chịu ảnh hưởng cả ngàn năm đô hộ của Trung Hoa nên mới trang bị thêm áo, mão, hia để chúng ta nhìn cho giống “quan” đó. Con nhìn mấy bức tranh xưa mà coi, người ta chỉ chú ý tô vẽ ba thứ này, chớ có ai chú ý tới quần đâu, nên quần bị lược bỏ là vì vậy.

Ông Táo:Chúng còn mượn tích này mà làm thơ nữa chớ. Ta không nhớ tác giả là ai nhưng con có nghe bài này chưa:

“Hăm ba, ông Táo dạo chơi xuân
Đội mão, đi hia, chẳng mặc quần
Giời hỏi: làm sao ăn mặc thế?
Thưa rằng: hạ giới nó… duy tân!” (1)

Ông Táo (khác): Chúng còn bảo chúng ta “ít mặc” nên “ít làm”:

“Ông Cả ngồi trên sạp vàng,

Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo.

Ông Bếp ngồi trong đống tro,

Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm.”  (2)

Bà Táo:  Con cháu nó dại dột, hai ông trách làm gì.

Tôi: Con thấy người miền Bắc cúng cá chép, người miền Trung cúng cỗ ngựa giấy, còn người miền Nam cúng “cò bay ngựa chạy”, cho con hỏi vậy Táo Quân thích cưỡi con nào nhứt?

Ông Táo: Ta thích cưỡi ngựa, nhìn oai phong đa.

Ông Táo (khác): Còn ta thích đổi xe, nên đường bộ đi ngựa, đường hàng không đi…cò.

Bà Táo: Con đừng nghe mấy ổng, thời buổi tự động hóa này chúng ta chỉ cần nhấn nút là trong chớp mắt xuất hiện trên thiên đình, bận tâm cưỡi cái gì cho mệt.

Tôi: Dạ, thiên đình cũng hiện đại ghê, mà sao có con vật cưỡi mà người ta cũng cúng khác nhau thưa Cụ?

Bà Táo: Chắc do truyền thuyết cá chép vượt Vũ môn hóa rồng nên dân gian nghĩ chúng ta phải cưỡi cá chép mới bay về trời được. Ta coi trên mạng thì thấy Vũ môn nằm trên sông Dương Tử, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, ta không rõ truyền thuyết này thuần Việt hay có gốc từ Trung Quốc. Có người còn nói cá chép là biểu tượng của Lạc Long Quân, để kỳ này lên trời gặp ổng, ta sẽ hỏi coi trước khi thành rồng có phải ổng là cá chép không.

Ông Táo: Bà hỏi làm gì cho mất công. Người ta là rồng mà lại đi nhận mình là cá chép à?

Tôi: Dạ còn “cò bay ngựa chạy” là sao? Chớ con ngựa thì con hiểu, hồi xưa muốn nhanh toàn đi ngựa không hà, ngựa còn biết bay như ngựa của Thánh Gióng nữa, sao còn cần tới con cò?

Ông Táo: Không phải cò mà là hạc. Đây là theo nghi thức “xá mã, xá hạc” của Đạo giáo và Phật giáo (3) đó con. Sau khi cúng, người ta bỏ sớ vô đốt chung với giấy in hình cò bay ngựa chạy để nhờ ngựa và hạc (cò) đem sớ tới thần phật.

Bà Táo: Ông giỏi hen!

Ông Táo: Bà biết lên mạng, tui cũng biết lên mạng chớ bộ!

Tôi: Con thấy có khi người ta thờ ông Táo trên bàn thờ giữa nhà, nhứt là ở kiểu nhà ba gian Nam Bộ xưa, còn đa số thờ ông Táo trong bếp. Con không biết thờ ở đâu thì đúng?

Ông Táo (khác): Lần này để ta giảng cho con nghe. Cái ông thờ trên bàn thờ giữa nhà kêu là Định Phước Táo Quân, thờ chung với Quan Thánh và Thổ Địa. Còn ông thờ trong bếp kêu là Hỏa Đức Táo Quân. (4) Tục thờ ba ông trên bàn thờ chính bắt nguồn từ ảnh hưởng của người Hoa ở Nam Bộ, minh chứng rõ ràng nhứt là ông Quan Thánh. Sau này người ta thấy thờ ông Táo hai nơi bất tiện, nên dời Ông Táo vô bếp luôn. Ông Quan Thánh cũng đi về nước, còn ông Thổ Địa thì xuống đất ngồi chung với ông Thần Tài.

Tôi: Ủa, đơn giản vậy thôi hả Ông? Tiện cho tụi con, chớ có tiện cho các thần không?

Bà Táo: Chúng ta ở đâu mà không được con, miễn con người sống đàng hoàng nhơn đức là chúng ta vui. Con cháu cứ sợ chúng ta lên “méc” Ngọc Hoàng, thiệt ra chúng ta đâu cần nói gì. Từ xưa đã có câu “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, đúng không con?

Tôi: Dạ đúng, nên người ta có cúng đồ ngọt cách mấy mà sống không đàng hoàng cũng không hối lộ nổi Táo Quân ha Cụ. Nhân nói chuyện đồ ngọt, con thấy ở miền Nam cúng cái thứ ngộ lắm, kêu là “kẹo thèo lèo cứt chuột”. Kẹo “thèo lèo” do người Việt đọc trại từ “trà liệu” tiếng Triều Châu, nghĩa là đồ ngọt để uống trà. (5) Con thấy người ta hay bán kẹo đậu phộng và kẹo mè đen xắt thỏi cỡ bằng ngón tay, và hột đậu phộng áo một lớp đường nhuộm trắng hay hồng, rồi kêu chung là kẹo thèo lèo. Con không biết trong ba loại này, loại nào là “kẹo cứt chuột”? Người thì nói là kẹo mè đen vì hột mè đen coi giống cứt chuột, con nghe cũng có lý, nhưng Cụ Vương Hồng Sển lại nói đó là hột đậu phộng áo đường. (6)  Ai đúng thưa Cụ?

Bà Táo (nhìn hai ông Táo): Hồi giờ tui sợ mập nên hổng ăn ngọt. Hai Ông hay ăn ngọt thì chắc rành hen.

Ông Táo: Con cháu cúng gì tui thời đó chớ để ý cái tên làm chi. Chắc mấy người lớn tuổi nói đúng đa con. Mà bây giờ tụi bây toàn thích tên hay, ai dùng tên “kẹo cứt chuột” nữa đâu mà bây thắc mắc.

Bà Táo: Tới giờ rồi, chúng ta phải đi nghen con. Con ở nhà nhớ ăn ở đàng hoàng, siêng năng làm công chuyện, đừng lười biếng. Chúng ta ở trên Thiên đình chớ vẫn có gương thần 4G để theo dõi việc ở nhà đa.

Ông Táo: Bà lạc hậu rồi nghen. Năm nay gương thần lên 5G rồi.

Tôi: Dạ, con nhớ mà. Con chúc các Cụ đi đường bình an, nghỉ lễ vui vẻ.

            Cả ba Ông Bà Táo nhìn tôi cười, rồi vù một cái, cả ba biến mất. Tôi sực tỉnh, lật đật lấy giấy ra ghi lại kẻo quên. Ghi xong, gà cũng vừa gáy sáng. Tôi định ngủ thêm chút nữa, nhưng nhớ lời dặn dò của Bà Táo, đành chui ra khỏi giường. Một ngày mới bắt đầu!

Minh Lê (Suối Tiên, 1/2021)

=========

Ghi chú:

(1) Bài thơ này được nói là trong báo Xuân Ngày Nay 1940 của nhóm Tự Lực văn đoàn (hoanghaithuy.com) nhưng người viết kiểm tra lại báo gốc thì không thấy. Độc giả nếu biết nguồn gốc xin góp ý.

(2) Ca dao.

(3) Huỳnh Ngọc Trảng – Nguyễn Ðại Phúc (2013), Ðặc khảo về tín ngưỡng thờ gia thần, Nxb Văn hóa văn  nghệ, tr. 53.

(4) Trương Ngọc Tường (2002), Tục thờ cúng Táo quân ở Nam Bộ, Tạp chí Xưa và Nay, số 108-109, tháng 1+2.

* (3) và (4) ghi chú theo “Tục thờ Ông Táo ở Nam Bộ”, Trần Phỏng Diều, 17/1/2021, baocantho.com.

(5) Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Nxb Rey, Curiol & Cie 1895, tr. 1000.

(6) Vương Hồng Sển, Ăn cơm mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang Ba Thắc, Nxb Trẻ 2012, tr. 25.

Minh Lê

Theo saigonthapcam