Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng gọi Huế là xứ sở của “Lăng miếu trùng vây”. Có thể nói, ngoài bề dày lịch sử của đất thần kinh, “Văn hóa lăng tẩm” là một bộ phận quan trọng và độc đáo cấu thành di sản văn hóa Huế.
“Gió về mang cả mùi lăng tẩm”
Hệ thống lăng tẩm ở Huế gắn liền với sự thăng trầm của chiếc ngai vàng triều Nguyễn (1802 – 1945). Trải qua 13 đời vua, nhưng vì những lý do lịch sử phức tạp mà hiện còn 7 khu lăng tẩm theo thứ tự: Lăng Gia Long (Thiên Thụ Lăng), Minh Mạng (Hiếu Lăng), Thiệu Trị (Xương Lăng), Tự Đức (Khiêm Lăng), Dục Đức (An Lăng), Đồng Khánh (Tư Lăng) và Khải Định (Ứng Lăng). Nếu đứng từ vị trí trung tâm của Cố đô, 7 khu lăng này đều nằm về hướng tây của kinh thành Huế, đó là biểu tượng “Thái dương tây hạ” (Mặt Trời lặn phía Tây) – chỉ việc băng hà của đấng Chí tôn.
Toàn cảnh lăng Gia Long nhìn từ núi Đại Thiên Thọ.
Theo quan niệm xưa “Thứ nhất dương cơ, thứ hai âm phần”, việc xây cất quan trọng sau cung điện là lăng mộ. Từ thời Lý về trước, lăng mộ các vua rất đơn giản, nay chỉ còn dấu vết ít ỏi. Từ đời Trần, Lê về sau, mỗi vua có một lăng riêng, nhưng tẩm thờ thì chung. Đến thời Nguyễn, các vua mới có lăng tẩm mộ to thờ riêng từng người.
Thuật phong thủy là yếu tố phải tuân thủ triệt để trong kiến trúc lăng tẩm Huế. Với quan niệm “Tức vị trị lăng”, ngay khi tại vị, vua đã cho tiến hành khảo sát địa thế, lập đồ án xây dựng lăng tẩm cho mình. Các quan ở Khâm Thiên Giám, bộ Lễ, bộ Công đi tìm cuộc đất, ngày khởi công, trình đồ án kiến trúc cho vua ngự duyệt.
Các thầy địa lý nổi tiếng nhất phải mất hàng tháng hoặc hàng năm trời dò tìm long mạch để có địa cuộc đại cát hội đủ các yếu tố minh đường huyền thủy, tiền án hậu chẩm, sơn triều thuỷ tụ, tả thanh long hữu bạch hổ… Huyền cung (nơi đặt quan tài) phải đúng long mạch. Ngoài sông, núi, khe, hồ của tự nhiên là lầu, đài, đình, tạ hoặc đắp thêm núi đất làm án, chẩm; hoặc đào thêm hào, khe làm huyền thủy… hình thành nên những tòa lăng tẩm với kiến trúc độc đáo, cảnh quan hài hoà, hùng vĩ mà thơ mộng. Hầu hết các lăng đều nằm trên những đồi cỏ mượt với ngút thông xanh, cổ thụ sum suê toả bóng xuống mặt hồ lặng biếc.
Nhìn bao quát không gian lớn mới thấy hết vẻ hoành tráng của lăng và mối liên hệ với những thực thể địa lý xa đến hàng chục cây số. Lăng Gia Long có diện tích hơn 20ha, nằm trên núi Thiên Thụ, có núi án là Đại Thiên Thụ, xung quanh có 36 ngọn núi chầu vào. Lăng này do thầy phong thủy Lê Duy Thanh, là con của nhà bác học Lê Quý Đôn, tìm ra địa cuộc. Vua Gia Long đích thân cưỡi voi đi khảo sát trước khi chuẩn y.
Hồ Trừng Minh và tòa Minh Lâu ở lăng Minh Mạng.
Lăng Minh Mạng rộng 15ha, nằm trên núi Cẩm Kê (Hiếu Sơn), có núi Kim Phụng chầu, toàn lăng như một người nằm gối lên đồi cao, chân tay duỗi ra phía ngã ba sông. Quan Lê Văn Đức tìm ra đất này được vua thăng hai cấp.
Lăng Thiệu Trị nằm trên núi Thuận Đạo, rộng 6ha, theo phong thủy là thế “sơn chỉ thủy giao”(núi dừng, nước giao). Phía trước có đồi Vọng Cảnh chầu bên phải, núi Ngọc Trản chầu bên trái thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”. Trước lăng khoảng 9km có núi Chằm làm tiền án, phía sau có núi Kim Ngọc làm hậu chẩm.
Sống gửi thác về
Khu lăng tẩm nào cũng chia làm hai phần chính là lăng và tẩm. Lăng là nơi an táng thi hài vua, tẩm là hành cung nơi vua làm việc, sinh hoạt, giải trí kiến trúc mô phỏng như hoàng cung. Vua thỉnh thoảng ngự giá đến đây để tiêu khiển, ngắm cảnh, làm thơ, nhìn ngắm sinh phần của mình mà ý thức rằng cõi trần tạm bợ, đời người chóng qua như giấc mộng: “Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê/Sống gửi rồi ra lại thác về/Khôn dại cùng chung ba tấc đất/Giàu sang chưa chín một nồi kê…” (Ngẫm sự đời – Vua Tự Đức).
Với quan niệm “Sống gửi thác về”, lăng tẩm là hoàng cung vĩnh hằng của các vị vua. Vì thế, trong hầu hết các lăng tẩm đều trang trí vô số hoa văn các chữ “thọ”, “hỷ”, hình ảnh sông núi thân quen, những bức họa sinh động để không có cảm giác chết chóc, nặng nề.
Trục tẩm của lăng Thiệu Trị.
Lăng được kiến trúc từ thấp lên cao. Ngoài cùng là thành bao bọc, có hồ thả sen, bờ hồ trồng sứ, cây cảnh. Cổng chính là đến một sân gạch rộng, hai bên sân có đúc tượng người, voi, ngựa bằng đá. Trên cuối sân là Bái đình để các quan làm lễ khi tế tự. Tiếp đó là Bi đình (nhà bia) là toà nhà nhỏ có một tấm bia lớn trên bệ đá cao gọi là bia Thánh đức thần công. Trong bia khắc bài ký ghi nhớ công đức của vua.
Sau lưng Bi đình là hai trụ hoa biểu (trụ dẫn linh hồn) cao vút. Qua Bi đình là tẩm điện, thờ thần vị của hoàng đế và hoàng hậu, bên ngoài bày những đồ ngự dụng lúc sinh thời. Phía trong Tẩm điện và hai bên có hai dãy nhà lớn gọi là Tả hữu tùng viện để các bà phi và kẻ hầu ở. Theo nhà nghiên cứu Phan Văn Dật thì đến năm 1901, tức 14 năm sau khi vua Dực Tông băng hà, còn có 47 bà phi sống trong Khiêm Lăng.
Hồ Lưu Khiêm và Xung Khiêm Tạ ở lăng Tự Đức.
Lăng tẩm ngày nay vắng bóng cung nga, khói hương tàn lạnh, tường xanh rêu phủ, nhưng dường như trong không gian se sắt ấy phảng phất bóng u linh rì rào trên ngọn thông, khối đá khiến lòng người chùng xuống. Cảnh sắc ấy thật u uẩn mà cũng thật thi vị, như thi sĩ Bích Lan từng viết: Kìa núi Ngự sông Hương cùng lăng tẩm/Vẫn âm thầm chờ đón các thi nhân…
Nhà nghiên cứu Huế Phan Thuận An đã đúc kết phong cách nghệ thuật của bảy khu lăng tẩm như sau: Lăng Gia Long hoành tráng; Lăng Minh Mạng thâm nghiêm; Lăng Thiệu Trị thanh thoát; Lăng Tự Đức thơ mộng; Lăng Dục Đức đơn giản; Lăng Đồng Khánh xinh xắn; Lăng Khải Định tinh xảo.
Theo TẠP CHÍ KIẾN TRÚC