Lịch sử vương quốc Champa, với tư cách là một tổng thể hầu như chưa có một nghiên cứu phê phán nào kể từ cuốn sách của Georges Maspéro xuất bản năm 1928, nay cần phải được nhìn lại với nhiều vấn đề.

Xem xét lại lịch sử vương quốc Champa

Bài viết của nhà nghiên cứu Michael Vickery.

Nguồn: Michael Vickery 2005. Champa revised, Asia Research Institute Working Paper Series No. 37, 2005. The ARI Working Paper Series is published electronically by the Asia Research Institute of the National University of Singapore.

Tác giả: Chân thành cảm ơn Bruce Lockhart đã giúp chuẩn bị bản thảo để công bố trong ARI Working Papers Series.

Như đầu đề của bài viết muốn nói, tôi cho rằng lịch sử Champa, với tư cách là một tổng thể hầu như chưa có một nghiên cứu phê phán nào, kể từ khi cuốn sách1 của Georges Maspéro xuất bản năm 1928, nay cần phải được nhìn lại với các vấn đề sau:

i) Nguồn gốc của người Chăm nói tiếng Nam Đảo hiện sinh sống tại Việt Nam và Cambodia;

ii) Vấn đề Lâm Ấp; có phải Lâm Ấp chính là Champa do những hồ sơ đầu tiên liên quan đến vấn đề này, hay là do được xác định về sau, còn nếu Lâm Ấp không phải là Champa thì đó là gì?;

iii) Các quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là quan niệm cho rằng Champa, bao gồm cả Lâm Ấp thường xuyên là nạn nhân của tệ bành trướng của người láng giềng phía bắc;

iv) Cách kể về lịch sử Champa của Maspéro. Mặc dù cuốn sách của ông lập tức thu hút sự xét đoán của độc giả ngay sau khi xuất bản và càng ngày càng thấu đáo hơn kể từ Rolf Stein, nhưng các kết luận chủ yếu của ông lại được trao truyền theo nghĩa đen vào công trình tổng hợp nổi tiếng của Georges Coedès, và đã tiếp tục tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến các công trình nghiên cứu khác, kể cả việc chấp nhận chung của một số nhà ngôn ngữ cho đến tận thập kỷ vừa qua 3.

Bài viết này bao gồm cả việc xem xét lại vị thế chính trị – hành chính của các vùng người Chăm sinh sống được xác định căn cứ vào các di tích kiến trúc và bi ký trải dài từ Quảng Bình đến nam Phan Rang. Có nghĩa là nhìn lại xem liệu có phải Champa là một nhà nước/vương quốc thống nhất duy nhất như mô tả trong các công trình nghiên cứu kinh điển đã có hay đó là một loại liên chính thể do người Chăm nói tiếng Nam Đảo thống trị, hay cả hai, hoặc đó là những chính thể hoàn toàn riêng biệt, thỉnh thoảng có tranh chấp? 4

Các nguồn tư liệu: Có ba loại nguồn tư liệu cho lịch sử Champa: (1) các di tích vật chất – kiến trúc gạch vẫn được coi là hệ thống đền tháp đi liền với các công trình điêu khắc, và các tư liệu thu được từ các cuộc khai quật khảo cổ học; (2) các bi ký bằng tiếng Chăm cổ và tiếng Phạn; và (3) các sử liệu chữ Hán và tiếng Việt về mối quan hệ giữa các quốc gia đó và các chính thể khác thuộc các vùng phía nam Trung Quốc, trong đó có bắc Việt Nam, và vùng lãnh thổ thuộc nam Việt Nam ngày nay.

Các di tích vật chất: Các di tích vật chất trên mặt đất, hệ thống đền tháp thông qua các công trình kiến trúc đã cho thấy tối thiểu có ba vùng bắt đầu phát triển vào cùng một thời gian – khoảng các thế kỷ 8 – 9. Tuy nhiên, chắc chắn là đã có các kiến trúc sớm hơn giờ đây không còn nữa và niên đại khởi đầu thực sự thì sớm hơn. Kể từ Bắc vào Nam, các vùng đó là (1) Quảng Nam, nhất là lưu vực sông Thu Bồn, khu vực Mỹ Sơn, Trà Kiệu và Đồng Dương; (2) vùng Nha Trang với phức hợp Po Nagar, và (3) vùng Phan Rang, trong đó các bộ phận thuộc di tích Hòa Lai có thể có niên đại vào thế kỷ 8, và có lẽ có thể gồm cả các kiến trúc Pô Dam và Phan Thiết xa hơn về phía Nam.5

Một vùng khác, ở đó có số lượng lớn các di tích đền tháp, đó chính là khu vực Quy Nhơn, nhưng các kiến trúc ở đó lại có niên đại thế kỷ 11 – 13, mà không có các di tích sớm hơn. Toàn bộ các vùng này đều nằm ở các cảng rất thuận tiện thuộc các cửa sông, hoặc trên các con sông, không xa biển. Một di chỉ cổ tại lưu vực Thu Bồn ở đó toàn bộ các công trình kiến trúc trên mặt đất đã biến mất theo thời gian, là đề tài thu hút rất nhiều mối quan tâm, nhưng ở đó các công trình điêu khắc ấn tượng thì lại vẫn còn, đó là Trà Kiệu, cách Mỹ Sơn khoảng 20 – 30 km; tầm quan trọng của nó có lẽ từ thế kỷ thứ nhất đã được khảo cổ học phát lộ6.

Hai con sông có tầm quan trọng hơn cả trong lịch sử sớm Champa, mặc dù cho đến bây giờ vẫn chưa được chú ý đúng mức. Một là – tôi sẽ chỉ rõ, con sông chưa bao giờ được quan tâm đến – sông Trà Kúk ở Quảng Ngãi với hai ngôi thành cổ Châu Sa (rõ ràng là một thành lũy lớn) và Cổ Lũy (nơi này đã phát hiện được một số công trình điêu khắc quan trọng, có lẽ niên đại từ thế kỷ 7 – 8). Cả hai ngôi thành này đều nằm gần cửa sông, cùng với các di tích của ngôi tháp Chánh Lộ có các công trình điêu khắc rất đáng chú ý, có niên đại thế kỷ 11. Việc gần như bỏ qua thành Châu Sa của các nhà khảo sát trước đây có lẽ do họ không phát hiện được hệ thống đền tháp ấn tượng, mà lại chỉ có một bi ký 7. Còn con sông kia là Đà Rằng – Sông Ba, đổ vào biển ở Tuy Hòa, giữa Quy Nhơn và Nha Trang; đó là một lưu vực rộng nhất ở Việt Nam. Các di tích của các giai đoạn khác nhau đã được phát hiện dọc triền sông, một bi ký Phạn thế kỷ XV ở vùng cửa sông, và Thành Hồ rộng hơn thành Châu Sa, cách biển khoảng 15 km. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một tuyến đường thủy quan trọng vào nội địa 8.

Một vùng khác cũng bị bỏ qua, đó là vùng phía cực bắc của Champa ở Quảng Trị và Quảng Bình, rõ ràng là thuộc thế kỷ 9 – 10, khi Indrapura và khu vực đền tháp Đồng Dương hưng thịnh và khi các di chỉ Phật giáo Đại thừa phát triển tại Ròn/Bắc Hạ, Đại Hữu, Mỹ Đức và Hà Trung 9. Vùng này có lẽ được đưa vào phạm vi “triều vua thứ sáu” của Maspéro, nhưng các công trình tưởng niệm của nó đã không được nghiên cứu trong thời gian ông đang viết về vấn đề này, và tầm quan trọng của vùng này chưa bao giờ được đánh giá đúng mức. Hơn nữa, ý nghĩa to lớn của nó lại bị lu mờ đi trong các văn liệu với việc quy cho các công trình đó thuộc “phong cách” được đặt tên cho các trung tâm xa hơn về phía nam, chẳng hạn như Đồng Dương, Mỹ Sơn, v.v…10. Việc chú ý thiết yếu đến vùng này buộc chúng ta phải diễn giải lại lịch sử các sự kiện trong các thế kỷ 10 – 11.

Cần phải nhấn mạnh rằng việc định niên đại nhiều di tích kiến trúc và việc phát hiện các công trình điêu khắc trên mặt đất vẫn cần phải được nghiên cứu kỹ hơn, vì người ta đã không còn chấp nhận các diễn giải cũ là hợp lý nữa. Các mẫu bao gồm Mỹ Sơn E-1, được định niên đại bằng cách so sánh với điêu khắc Cambodia cách xa 700 km với một bi ký mơ hồ đi kèm; cụm tháp Hòa Lai, Phan Rang được định niên đại theo Damrei Krap ở Phnom Kulen, Cambodia, căn cứ vào một mẩu huyền thoại trên bi ký Cambodia Sdok Kak Thom; phong cách Tháp Mắm, Bình Định thì dựa vào cách xử lý nặng tính hư cấu của Maspéro; còn phong cách Mỹ Sơn A1 trước hết dựa trên một định kiến của Henri Parmentier cùng một bi ký bị lạm dụng và giờ đây không còn được phân biệt rõ ràng khỏi Trà Kiệu mà ngày nay rất ít người đồng ý vì những phong cách Trà Kiệu khác nhau được khảo cổ học thực địa phát hiện11. Vì vậy trong giai đoạn nghiên cứu này thì việc định niên đại các công trình kiến trúc và điêu khắc của lịch sử Champa đều khá lỏng lẻo.

Bi ký: Bi ký Champa được thể hiện bằng hai ngôn ngữ, Chăm và Phạn. Bi ký Chăm được coi là cổ nhất chính là bia Võ Cạnh được phát hiện tại một di chỉ gần Nha Trang. Nó được định niên đại vào khoảng thế kỷ 2 – 4, và càng ngày người ta càng có những ý kiến khác nhau về việc nó có thuộc Champa hay thuộc về một thủ lĩnh Phù Nam đã từng chinh phục vùng đất sau đó đã trở thành một phần của Champa. Quan điểm cuối cùng của Coedès được Maspéro ủng hộ cho rằng bia đó thuộc Phù Nam, và vị thủ lĩnh được xác định rõ ràng, có tên श्री मार* Śrī Māra, được viết bằng chữ Hán là 范師蔓* Fan Shih man Phạm Sư Mạn, còn tôn giáo thời kỳ đó là Đạo Phật. Quan điểm đó được thịnh hành đến tận năm 1969, khi Jean Filliozat cho rằng tước vị Māra có lẽ có nguồn gốc từ một tước vị hoàng gia पाण्ड्य* Pandyan, còn nội dung của tấm bi ký có thể cũng chỉ ẩn ý Ấn Độ giáo như là Phật giáo mà thôi. Cách xử lý như vậy dường như cho thấy bia Võ Cạnh có thể không được coi là thuộc Phù Nam, hoặc Champa, và chắc chắn không thuộc Lâm Ấp 12.

Tuy nhiên ngày nay William Southworth đã lôi cuốn sự chú ý đến những đặc điểm nhất định của nội dung bi ký, có vẻ thể hiện xã hội Nam Đảo; nếu lập luận ấy đứng vững thì có thể hoàn trả lại cho một thực thể Chăm tấm bi ký đầu tiên đó, mặc dù nó không thuộc Lâm Ấp. Như Southworth đã lưu ý, đoạn dịch dưới đây của Filliozat và Claude Jacques: “Tác giả của tấm bi ký này có lẽ không hề là hậu duệ của Śrī Māra, mà là một người con rể đã kết hôn với dòng tộc mẫu hệ thống trị. Trọng tâm then chốt của dòng tộc này rõ ràng là người con gái của cháu nội Śrī Māra, mà tác giả của tấm bi ký xuất thân từ gia đình đó, còn nội dung tấm bi ký đã cho thấy tôn ty mẫu hệ này”.

Có nghĩa là loại vật quyên cúng này được mô tả trong bi ký là “rất thông thường trong các xã hội mẫu hệ”, và tấm bi ký “chủ yếu được thúc đẩy bởi các mối quan tâm xã hội bản địa”. Cái tên Śrī Māra có thể vẫn thuộc về nguồn gốc Tamil như Filliozat đề xuất – mà người Chăm học được trong các chuyến hải hành đến Ấn Độ và sử dụng cái tên đó một thời gian cho đến khi tước vị phạn वर्मन्* varmache chở, bảo vệ* trở thành phổ biến vào giai đoạn sau. Nha Trang, như Southworth đã mô tả, là một cảng “trên tuyến thương mại chính qua Đông Nam Á” từ Ấn Độ đến bắc Việt Nam và nam Trung Quốc, “tạo ra một bối cảnh lịch sử và địa lý hợp lý cho việc dựng bia Võ Cạnh” 13. Tấm bia được coi là cổ xưa thứ hai, thế kỷ IV, sau Võ Cạnh là một văn bản cổ ngữ Chăm thuộc Đông Yên Châu, gần Trà Kiệu. Được phát hiện tại vùng Thu Bồn, không xa Mỹ Sơn, đây cũng là loại văn bản cổ nhất của bất cứ cổ ngữ Nam Đảo hoặc Đông Nam Á nào 14.

Cả hai tấm bia sớm này đều biệt lập và có thể không thuộc vào số còn lại, những tấm bia còn sót lại không được phân bố hoàn toàn phù hợp với các di tích vật chất. Nhóm bia có nội dung mạch lạc nhất gắn liền với sự phát triển sớm của lưu vực sông Thu Bồn, di chỉ Mỹ Sơn, đồng thời chỉ có những văn bản biệt lập ở nơi khác. Từ thế kỷ V-VIII có 20 bi ký tất cả đều bằng chữ Phạn, trừ hai bia ở Mỹ Sơn hoặc gần đó. Theo các thống kê của Southworth thì 19 bi ký với 279 dòng văn bản ở Quảng Nam, với 12 bi ký và 258 dòng ở Mỹ Sơn, nhưng chỉ có ba bi ký với 13 dòng ở nơi khác 15. Sau đó từ giữa thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX, khoảng 774 đến 854, có một nhóm 8 bia mạch lạc nhất ở phía Nam. Hầu hết các bia này đều ở Phan Rang, chỉ có vài cái ở Nha Trang; 5 tấm bia hòan toàn, hoặc một phần, viết bằng chữ Chăm. Tiếp theo, từ 875 (hoặc sớm hơn tý chút) đến 965, có 25 bi ký được coi là thuộc triều इन्द्रपुरा* Indrapura/Đồng Dương, lại ở phía bắc vùng Thu Bồn, nhưng riêng biệt khỏi Mỹ Sơn. Các bi ký này đều phác họa một khu vực rõ ràng từ Quảng Nam đến Quảng Bình và chỉ có loại cổ tự trong các văn tập đã được công bố phát hiện ở phía bắc Huế. Bốn bi ký nhóm này ở phía Nam và 16 bi ký hoàn toàn hoặc một phần thuộc chữ Chăm 16. Một bi ký có nhiều cổ tự Chăm hơn cả, và có lẽ liên quan là bia Mỹ Sơn, có niên đại 991 (xem bên dưới).

Về sau các bi ký này phân bố khá đồng đều giữa Bắc và Nam cho đến đầu thế kỷ XIII, sau đó có 32 bia được phát ở phía Nam, và chỉ có sáu bia ở Mỹ Sơn, niên đại muộn nhất là 1263. Sau năm 991, trong số 75 bia đã biết cho đến cái cuối cùng năm 1456 thì chỉ có 5 cái bằng chữ Phạn, tất cả đều trước năm 1263, và số còn lại là chữ Chăm. Trong cùng giai đoạn có 18 bia Mỹ Sơn tính đến chiếc cuối cùng được định niên đại 1263 và một bia khác từ cuối thế kỷ शक* śaka XII, hai trăm năm sau khi các vua Champa, theo Maspéro, được cho là chuyển về phía nam đến विजय* Vijaya do sức ép của người Việt, một hoàn cảnh buộc phải xem xét lại các mối quan hệ giữa hai chính thể này.

Thật khác thường là Bình Định/Quy Nhơn mặc dù rõ ràng có tầm quan trọng như hệ thống tháp gạch đã chứng tỏ và rõ ràng các nguồn tư liệu Champa và Cambodia đều chú ý đến nó, nhưng ở đây lại chỉ thấy có 7 bi ký rất ngắn – tất cả đều muộn màng, và chỉ có một bi ký có nhiều giá trị lịch sử hơn cả (C53 and C54/1178-1278, C58/1259, C55/1265, C52/thế kỷ ś., C47/1401, C56/1456). Tất cả các bi ký chủ yếu của các nhà cai trị được cho là đã kiểm soát Bình Định trước thế kỷ XIII đều được chạm khắc tại Mỹ Sơn. [Về vấn đề này, xin xem ở dưới, trong phần nói về Vijaya.

Một tập hợp các bi ký chi tiết và mạch lạc nhất, chí ít là có một chục văn bản, liên quan đến các mối quan hệ của các thế kỷ XI – XIII, hầu như hoàn toàn là chiến tranh với Cambodia. Việc thảo luận chi tiết về các bi ký này được trình bày tại mục về lịch sử tự sự ở phía dưới. Công trình đầu tiên về các bi ký Champa bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX. Abel Bergaigne bắt đầu tổng hợp các thông tin từ các bi ký từ năm 1888, và công bố các văn bản Phạn ngữ năm 1893. Công trình đầu tiên về các bi ký Chăm ngữ là của Étienne Aymonier năm 1891. Sau đó, trong một loạt bài viết, Louis Finot đã xử lý cả các bi ký Chăm ngữ và Phạn ngữ, bằng cách biến đổi một số vấn đề diễn giải về sau của Aymonier. Édouard Huber cũng đã thực hiện một công trình nghiên cứu quan trọng liên quan 17.

Vẫn còn những vấn đề về việc giải thích theo nghĩa đen một số văn bản Chăm ngữ. Vì hầu hết các bi ký được Aymonier xử lý trong bài viết năm 1891, nhưng ông đã không công bố chính văn bản đó, và cũng không hề đưa ra một bản dịch đầy đủ, mà chỉ tóm tắt các chi tiết quan trọng. Rõ ràng là một số bi ký vẫn cần có những diễn giải mới, để rồi cuối cùng, nó đã thu hút được sự chú ý của một nhà Chăm học tài năng. Khi Louis Finot tiếp tục công việc công bố và dịch các bi ký Chăm, ông luôn chọn các văn bản mà Aymonier không xử lý; và vì ông không phải là một chuyên gia về ngôn ngữ, nên không thể chấp nhận toàn bộ các bản dịch của ông mà không đặt câu hỏi. Vì chất lượng không chắc chắn của các bản dịch cổ ngữ Chăm, nhất là công trình của Aymonier, và của cả Finot nữa, nên tất cả các diễn giải về các sự kiện lịch sử dựa vào đó đều phải được trình bày bằng cách thông báo trước rằng để có được những bản dịch tốt hơn thì buộc phải xem xét lại một số chi tiết.

Giờ đây đã có một công trình mới của Anne-Valérie Shweyer về các bi ký Champa được sử dụng làm hướng dẫn cho tất cả các xuất bản phẩm. Nó có ý liệt kê toàn bộ các bi ký đã được công bố theo trật tự niên đại, đã được hiệu chỉnh với các cột ghi số đăng ký, vị trí, tên người và tên các thần được đề cập và các công bố khác liên quan 18. Ngoài công trình của Shweyer, không có một nghiên cứu nguyên bản nào mới về các bi ký Chăm trước năm 1920, và danh mục tư liệu chuẩn về các bi ký Champa, cả Chăm ngữ và Phạn ngữ, đều có niên đại từ 1923 19.

Sử sách Trung Quốc và Việt Nam

Các nguồn sử liệu Trung Quốc được Maspéro sử dụng là các bộ sử sách chính thức của các triều đại dẫn từ 文獻通考* Văn hiến Thông khảo của 馬端臨* Mã Đoan Lâm, do Hervey de Saint-Denys dịch ra tiếng Pháp với tựa đề Ethnographie des peuples étrangers Man tộc khảo và đã được Maspéro trích dẫn bằng từMéridionaux 20, Nam man. Mới đây Geoff Wade đã dịch một số phần của một văn bản viết về Champa khác, 宋會要* Song huiyao Tống Hội yếu*, không được Maspéro sử dụng, văn bản này về nhiều tình tiết quan trọng lại khác hẳn với 宋史* Tống sử được Maspéro trích dẫn, sẽ được chú thích ở dưới. Đối với một số giai đoạn của lịch sử Champa thì các sử sách này được biên soạn muộn hơn nhiều so với thời điểm diễn ra các sự kiện, và rõ ràng là các nguồn tài liệu gián tiếp. Như Wade đã mô tả, 宋會要* Song huiyao Tống Hội yếu được biên soạn “trong một quá trình trải từ đầu thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIII … nhưng chưa bao giờ được in ra”. Sau đó nó đã được sử dụng làm một nguồn sử liệu cho việc biên soạn Tống sử vào thế kỷ XIV 21. Với những điều kiện này, người ta cần phải trì tín để đảm bảo rằng mọi chi tiết về Champa trong các thế kỷ X – XI cần được chấp nhận là thực sự, và những bất nhất về sử liệu cần phải được xem xét kỹ càng.

Các nguồn sử liệu Việt Nam đã được sử dụng để viết lịch sử Champa gồm có Ðại Việt sử ký Toàn thư (Tt), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (Cm), andViệt sử lược (Vsl22. Trong việc sử dụng các nguồn sử liệu Việt Nam của Maspéro có một vấn đề còn mơ hồ và không được các công trình sau này để ý đến, đó là sự tồn tại của hai truyền thống biên niên sử chủ yếu khác nhau về một số sự kiện liên quan đến Champa, và cả các chính thể khác nữa. Trước hết, đó là Toàn thư được Cương mục đi theo, và thứ hai là Việt sử lược. Maspéro đã sử dụng phiên bản này hoặc phiên bản khác, rõ ràng là theo quyết định võ đoán của ông về sự kiện “cần diễn ra” như vậy. Các ví dụ về vấn đề này sẽ được chỉ ra ở phần sau.

Đối với khu vực đang được đề cập, các sử sách Trung Quốc và Việt Nam thường bắt đầu bằng việc tham chiếu vào một chính thể có tên gọi là Lâm Ấp, nằm ở phía nam Giao Chỉ, các tỉnh của Việt Nam được coi là dưới quyền quản lý của Trung Quốc; trước hết nó được ghi chú bằng cái tên đó vào những năm 220 – 230, và dẫn chiếu cuối cùng xuất hiện năm 757. Lâm Ấp là một vùng có vấn đề vì các hoạt động gây hấn chống lại Giao Châu ở phía bắc. Sau khi Lâm Ấp biến mất khỏi các ghi chép của Trung Quốc thì các sử sách chính thức của Trung Quốc trong một thế kỷ thỉnh thoảng có nhắc đến một chính thể có tên gọi là Hoàn Vương, rõ ràng là thuộc vùng Lâm Ấp, cho đến giữa thế kỷ thứ 9 người ta vẫn nhận là Champa bằng tên gọi Chiêm Thành, “Thành của người Chăm”.

Xuyên suốt thời kỳ Lâm Ấp cho đến giữa thế kỷ VII, tức là một thế kỷ trước khi cái tên đó biến mất – các thủ lĩnh Lâm Ấp trong các sử sách Trung Quốc có tước vịFan và sau đó là những cái tên có từ một đến ba âm tiết, với thủ lĩnh cuối cùng,范鎭龍* Fan Zhenlong Phạm Trấn Long, xuất hiện trong khoảng năm 645 [舊唐書* Cựu Đường thư cxcvii, 32a; 新唐書* Tân Đường thư ccxxii, 下 19a; 文獻通考*Văn hiến Thông khảo xxiv, 46b]. Nói chung không thể đồng nhất một cách hợp lý những cái tên Fan với tên của những người trị vì trong các bi kí Champa đương thời, mặc dù Maspéro đã thử và sau đó các nhà sử học đã đi theo. Vào giữa thế kỷ thứ VIII đến cuối thế kỷ IX, khi tất cả các bi ký đều ở phía Nam thì người Trung Quốc không ghi các tước vị Fan và các tham chiếu của họ về Hoàn Vương không cho biết tên những người trị vì của chính thể đó dưới bất kỳ dạng thức nào.

Những cái tên trong các sử sách Trung Quốc và Việt Nam rõ ràng có thể quy vào những người trị vì Champa bắt đầu từ những năm 860 và tiếp tục – dù có khoảng trống lớn – đến cuối thế kỷ XII, sau đó trong khoảng gần một trăm năm dưới sự can thiệp của người Angkor vào Champa, rõ ràng là người Việt và người Trung Quốc đã ít chú ý đến nó. Các nguồn sử liệu đó bắt đầu lại cho thấy những cái tên của những người trị vì Champa từ đầu thế kỷ XIV và tiếp tục qua một vài thập kỷ cho đến khi không còn bi ký Champa nữa. Như Stein đã nhấn mạnh, không thể đồng nhất hầu hết những cái tên trong các văn bản Trung Quốc và Việt Nam với những cái tên trong các bi ký. Hầu hết những cái tên trong các bi ký là các tước vị có chữ varma, mà cách dịch chuẩn sang chữ Hán là 跋摩 ba mo bạt ma. Trong toàn bộ lịch sử Champa từ वर्मन्* varma đầu tiên, có lẽ vào thế kỷ thứ tư, đến năm 1471, chỉ có bốn trường hợp được phiên âm bằng chữ Hán 跋摩 ba mo bạt ma, mà tất cả đều thuộc thế kỷ VI-VII, và rất ít thấy trường hợp trong đó các yếu tố phiên âm chữ Hán khác có thể đồng nhất với một tước vị địa phương nào; một trong những ngoại lệ hiếm hoi là các âm Hán 庐陀罗lu tuo luo Lư Đà La và 庐陀 lu tuo Lư Đà cho रुद्रवर्मन्* Rudra-[varman] vào giữa thế kỷ thứ VIII. Còn có một trường hợp phiên âm Hán và âm Việt đáng tin cậy cho một tước vị Chăm yāï po ku vijaya śrī (xem bên dưới). Như tôi đã đề cập liên quan đến một trường hợp trong một bài viết trước đây, và sẽ tiếp tục đề cập đến trong bài viết này, lý do cho sự bất nhất này có lẽ là do người Trung Quốc và người Việt không quan tâm đến cái chính thể Champa đã được ghi trong các bi ký 23.

Nhìn lại lịch sử Champa

I. Các cội nguồn Champa và dân Chăm: Mãi cho đến gần đây, người Chăm vẫn được coi là một bộ phận của những “làn sóng” di chuyển dân cư ra khỏi Trung Quốc để đến Đông Nam Á lục địa, trong đó có một số nhóm tiếp tục di chuyển đến vùng đảo Nusantara. Các nhóm dân cư nói chung được xác định trong khuôn khổ thể chất về phương diện nhân học. Trước hết người Australoid-Melanesoid xuất hiện, tương đồng với các thổ dân Úc và các nhóm người Papua New Guinea, sau đó hai nhóm Indonesians, Proto- và Deutero- kế tiếp. Người Chăm – vì họ nhận ngôn ngữ của mình là Indonesian, bây giờ gọi là Austronesian, một nhánh, trong thời gian đó nhìn chung không được chấp nhận – được coi là những tàn dư của những người Indonesians vẫn còn trên lục địa này, sau khi số còn lại đã tiếp tục di chuyển đến các đảo dưới sức ép của làn sóng di dân mới nhất lúc đó là người Mon – Khmer. Theo quan điểm này, toàn bộ các cuộc vận động ấy có lẽ đã được hoàn thành trước khi bắt đầu Kỷ nguyên Thiên chúa. Vậy là Champa hoàn toàn là một cường quốc nội địa, và theo quan điểm đó, thì người láng giềng Phù Nam ở phương nam cũng vậy. Với những biến thể ngẫu nhiên thứ yếu, tất cả các học giả trước đây đều chấp nhận điều này, kể cả Coedès, Maspéro và Stein; nguồn gốc lục địa của người Chăm gần đây nhất vẫn còn được Jacques Népote duy trì và được ẩn trong “các bài viết cho Hội thảo về Champa tại Đại học Copenhagen” ngày 23/5/1987 24. Người ta cũng công nhận rằng người Tày/ Thái đã di cư đến các môi trường sống ngày nay muộn hơn nhiều so với các cuộc di dân đã phác họa ở trên, và người ta cũng tin rằng người Việt, được cho là một nhánh Sinitic (thuộc các nhóm Hoa ngữ), đã di chuyển đến vùng bắc Việt Nam ngày nay một cách độc lập so với các cuộc di dân kia.

Bắt đầu vào khoảng 30 năm trước, khi việc tập hợp thành các nhóm nhân học thể chất không còn thịnh hành nữa, và ngôn ngữ học ngày càng tiến bộ thì người ta quyết định rằng các ngôn ngữ Nam Đảo, kể cả tiếng Chăm phát triển không phải thông qua các tộc người di cư ra khỏi Trung Quốc theo con đường Đông Nam Á lục địa, sau đó đi ra các đảo nữa, mà là theo đường biển – có lẽ bắt đầu tại Đài Loan, sau đó đến Philippines, Indonesia, các đảo Thái Bình Dương, Madagascar, và trong các cuộc di cư cuối cùng, các tổ tiên của nười Chăm từ Borneo đến bờ biển Việt Nam ngày nay vào khoảng 500 năm TCN và những năm đầu của Kỷ nguyên Thiên chúa, mặc dù các xác định niên đại như vậy vẫn chỉ rất tương đối 25. Một số nhà khảo cổ học cho rằng Văn hóa Sa Huỳnh thuộc ven biển miền trung Việt Nam chính là bằng chứng vật chất đầu tiên của người Chăm, mặc dù những nghiên cứu tới sẽ thay đổi quan điểm này, và có thể không phải chỉ có một cuộc đổ bộ duy nhất của những người Chăm có nguồn gốc biển đầu tiên 26. Tuy nhiên không nghi ngờ gì rằng tiếng Chăm là một ngôn ngữ Nam Đảo, có mối quan hệ gần gũi với ngôn ngữ Ache, Malay và xa hơn với các ngôn ngữ của người Indonesia, Philippines, Polynesia và Madagascar.

Như nhà tiền sử học Peter Bellwood đã xác định, “tư tưởng cũ, vì vậy thường được lặp lại trong các công trình phổ biến ngày nay là người Nam Đảo di cư từ châu Á lục địa qua bán đảo Malay hoặc Việt Nam là hoàn toàn sai lầm”. Hơn nữa Bellwood còn cho rằng các di tích khảo cổ học Sa Huỳnh có thể đồng nhất với người Chăm đầu tiên, là những người có lẽ đã đến đó vào thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Hoặc, dẫn lại Bellwood, “Heine Geldern [1932] rõ ràng đã nhầm lẫn … khi ông gợi ý rằng những người Nam Đảo đầu tiên đã di cư từ Châu Á lục địa qua bán đảo Malay đến Indonesia. Hành trình thực sự của cuộc di chuyển của người Nam Đảo là đi theo một hướng khác 27. Tất nhiên, có thể đã không chỉ có một cuộc đổ bộ duy nhất dọc ven biển trung Việt Nam, mà những di tích Champa sớm nhất được biết cho đến nay đã cho thấy có lẽ đó là những di tích ở phía nam của Huế. Khi họ đến đó, vùng này đã có các cư dân nói tiếng Mon – Khmer. Trong thực tế, về phương diện ngôn ngữ, Đông Nam Á lục địa thời đó có lẽ là một khối Mon – Khmer thuần nhất 28.

Rolf Stein, trong một nghiên cứu chủ chốt về Lâm Ấp đã bất đồng một cách mạnh mẽ với Maspéro về nhiều chi tiết và dường như đã chỉ ra một cách dứt khoát rằng trước thế kỷ thứ V, chí ít thì Lâm Ấp và Champa có thể đã khác biệt nhau, và ông cũng xem xét bằng chứng về vị trí ngôn ngữ của Lâm Ấp, mà ông tin là thuộc Mon-Khmer. Chúng ta cần phải nhấn mạnh lại là Stein vẫn tin rằng người Chăm đã di cư trên đất liền và vì vậy mà họ đã từng ở trong vùng nam Trung Quốc – bắc Việt nam hàng trăm năm hoặc thậm chí hàng ngàn năm. Stein không nói về điều này một cách dứt khoát, nhưng qua các ghi chú của ông thì rõ ràng là ông chấp nhận điều đó như một thực tiễn cơ bản không cần gì phải khẳng định lại một lần nữa. Vì vậy khi cho rằng người Chăm đã tiếp xúc với người Trung Quốc trong một thời gian quá lâu dài, ông đã phân tích ngữ âm thái cổ (thế kỷ VIII – III TCN) và ngữ âm cổ (thế kỷ VI SCN) của các chữ Hán được sử dụng để gọi Lâm Ấp và Chăm, cuối cùng đã phát hiện ra rằng chúng gần như đồng nhất, bắt đầu bằng nhóm phụ âm “KR” HOẶC “PR”. Thông qua phân tích này, ông đã tìm cách phát hiện ra cách phát âm gốc của các từ tiếng Hán thích hợp, và ông cho rằng Lâm Ấp và Chăm đều là Mon-Khmer 29.

Tuy nhiên giờ đây người ta hiểu rằng người Chăm không đến bờ biển miền trung Việt Nam trước thiên niên kỷ I TCN, và trong một vùng có lẽ đã có ít hoặc không có tiếp xúc với người Trung Quốc vào thời gian mà người Trung Quốc đang chú ý đến họ và viết về họ. Vì vậy chữ Hán được sử dụng để chỉ về họ đã có một cái gì đó gần với cách phát âm hiện đại của chính chữ đó, và có lẽ đã đại diện – như Stein và sau đó là Bergaigne đã nhận ra – cho một sự thể hiện một cái tên nào đó mà người Chăm đã sử dụng cho chính bản thân họ, nhưng về điều đó, giờ đây chúng ta không thể biết được. Vì vậy, nghiên cứu của Stein về các cách phát âm thái cổ của các chữ đó là không thích hợp, như đã được Paul Demiéville 30 lưu ý. Hiểu biết mới này về các cội nguồn Chăm dựa trên cơ sở ngôn ngữ có nghĩa là người Chăm phải được hiểu như là một trong những dân tộc đi biển vĩ đại của Đông Nam Á tiền sử, và vì vậy mà vị thế kinh tế-chính trị của Champa cũng cần phải được nhìn nhận lại. Ngày nay đã có một sự đồng thuận cho rằng đến thế kỷ XII, nghề đi biển và thương mại biển trong vùng Đông Nam Á và giữa Đông Nam Á với Trung Quốc và Ấn Độ là do các nhóm địa phương chi phối, nổi bật trong số đó là những người nói tiếng Nam Đảo, kể cả người Chăm. Diễn giải này về nguồn gốc người Chăm và niên đại tương đối của sự kiện họ cập bến tại khu vực thuộc Việt Nam ngày nay đã đánh gục sự ngờ vực lòng kiên định của một số nhà nghiên cứu về tính đa tộc thuộc của Champa cổ, tối thiểu là trong việc mô tả các nhóm tộc người gồm có các nhóm riêng rẽ (nhưng lại liên hệ gần gũi) là Chăm, Jarai, Rhadé, Churu và Raglai cũng như các nhóm Mon – Khmer khác nhau. Ngày nay người ta hiểu rằng các ngôn ngữ Jarai, Rhadé, Churu, Raglai và các ngôn ngữ Nam Đảo khác tại Champa và Việt Nam về sau đã phát triển vượt ra khỏi ngôn ngữ Chăm, và có lẽ không phải là các ngôn ngữ riêng biệt trong giai đoạn Champa cổ điển cho đến tận thế kỷ XV. Từ khi người Chăm đầu tiên chen vào lãnh thổ Mon-Khmer, không nghi ngờ gì nữa, các chính thể Champa luôn luôn bao gồm một số nhóm ngôn ngữ tộc người và vì Champa gồm có các cảng thị ở cửa các con sông chính, nên một số lãnh thổ xem cài nào đó có thể dân cư Mon-Khmer luôn luôn đông hơn dân cư Nam Đảo 31.

Như chuyên gia về ngôn ngữ Mon-Khmer Gérard Diffloth đã mô tả quá trình ấy:

“Bằng chứng ngôn ngữ cho thấy rằng những gì thực sự đã diễn ra chính là cái mà những người nói tiếng Chăm (Cổ) đã chuyển đến một lãnh thổ (Tây Nguyên) mà lúc đó toàn bộ do người nói ngôn ngữ Mon-Khmer (đặc biệt là những người nói các loại hình ngôn ngữ Bahnar, Sre, Mnong, và có lẽ cả Sedang và các ngôn ngữ khác) cư chiếm, đã xác lập việc kiểm soát chính trị đối với họ, và cuối cùng đã làm cho họ chuyển đổi ngôn ngữ, từ bỏ ngôn ngữ Mon-Khmer gốc của họ và chấp nhận một loại ngôn ngữ Chăm để giờ đây đã trở thành Jarai, Rhade, …v.v. Điều này đã được thực hiện một cách rất rõ ràng bằng một thực tế là các loại ngôn ngữ Chăm đó chính là loại hình ngôn ngữ Bahna về phương diện cấu trúc, chứ không phải là Nam Đảo, và ngữ vựng của họ có chứa hàng trăm hạng mục từ Bahnaric không phải là những từ vay mượn, mà là những gì còn giữ lại được từ các ngôn ngữ trước đây. Cơ tầng Mon-Khmer trong ngôn ngữ Chăm Núi là rất rõ ràng và buộc ta phải giật mình vì nó đã đánh lừa được các nhà nghiên cứu trước đây, kể cả Schmidt là người đã đưa các nhóm Chamic vào tiểu hệ Mon-Khmer [xem thêm Stein, Lâm Ấp, ở dưới], khi cho rằng các nhóm đó là “các ngôn ngữ pha trộn”, một khái niệm không còn được sử dụng nữa” 32.

Đám Copenhagen cũng đã duy trì một ý tưởng cũ của Finot cho rằng thuật ngữ “Cham/Cam” không phải là tên của một nhóm tộc người, mà chỉ là một apocopehiện tượng mất âm chủ của “Champa”. Đây là một vị trí đặc biệt phải giữ. Cái tên Champa có thể được hiểu là một sự mô phỏng cái tên चम्प* Champa ở Ấn Độ, nhưng việc chọn cái tên đó cho một khu vực trên bờ biển Đông Nam Á, như Stein thừa nhận, có lẽ vì cái tên của nhóm người ở đây có cái gì đó giống thế /cam/. Cái tên đó có lẽ do chính họ lựa chọn sau các chuyến hải hành đến Ấn Độ chứ không phải là bị buộc phải dùng cái tên đó do những người Ấn Độ đem đến, như Finot tin tưởng một cách chắc chắn. Từ điển của Aymonier và Antoine Cabaton năm 1906 đã đưa ra chữ čaü như là cái tên hiện nay cho họ, bằng ngôn ngữ của họ, như từ điển năm 1971 của Gérard Moussay, đánh vần trong bản chữ viết Chăm, phiên âm là căm. Những người láng giềng hiện đại của họ, không nghi ngờ gì nữa đã rất ngây thơ về các định kiến Ấn Độ học, nên đã gọi họ là čam (Rade), cam(Jarai, Chru), cap (Raglai), …v.v; còn cái được gọi là Chiêmtiếng Việt để diễn giải lịch sử Champa cổ, nhưng phiên bản Cham của họ, hệt như cách định danh chính thức của người Trung Quốc đối với Champa sau thế kỷ thứ IX (占城 ZhanchengChiêm Thành) là thành của người Chăm, chứ không phải là thành của Champa? Ngay bản thân Po Dharma là người Chăm, khi không đề cập gì đến ý thức hệ nhóm Paris của ông, cũng có thể đặt tên cho cuốn sách của mình một cách vô thức là Quatre lexiques malais-cam anciens Bốn từ điển Mã Lai – Chăm cổ, khi không xem xét đến ngôn ngữ Chăm cổ thực sự, mà là ngôn ngữ Chăm thế kỷ XIX33.

II. Vấn đề Lâm Ấp

Đối với những người châu Âu đầu tiên quan tâm đến vấn đề này thì lịch sử Champa được bắt đầu bằng một chính thể có tên gọi Lâm Ấp (âm cổ là Liem-.iep) lần đầu tiên được ghi trong sử liệu Trung Quốc là đã dấy loạn chống lại chính quyền Giao Chỉ vào thế kỷ thứ III SCN. Trong suốt các thế kỷ tiếp theo cho đến khi cái tên Lâm Ấp biến mất khỏi các sử sách Trung Quốc (và sau này là cả sử sách Việt Nam) sau năm 757, thì nó được mô tả là một thực thể hiếu chiến thường gây sức ép về phía bắc chống lại các tỉnh do người Trung Quốc cai quản, mà ngày nay là bắc Việt Nam. Vì vậy các ghi chép đầu tiên bằng chữ Hán xác định nó thuộc phía Bắc, nhưng các sử gia chẳng hạn như Maspéro thì lại tin rằng bia Võ Cạnh gần Nha Trang là thuộc về chính thể này, và vì vậy mà Lâm Ấp gốc mở rộng từ xa về phía Bắc cho đến tận vùng Nam Trung bộ Việt Nam ngày nay. Các bi ký bằng chữ Phạn và chữ Chăm thấy có từ thế kỷ V tại vùng lưu vực sông Thu Bồn, trong số đó quan trọng nhất là bia Mỹ Sơn, và tiếp tục phát triển về số lượng và tầm quan trọng cho đến thế kỷ VIII đều được coi là thuộc chính thể mà người Trung Quốc gọi là Lâm Ấp này, và giả thuyết đó đã củng cố cho quan điểm coi Lâm Ấp và Champa là một.

Sử sách Trung Quốc không diễn giải gì về Lâm Ấp, tối thiểu như đã mô tả trong các văn liệu hiện thời, chẳng hạn như việc cung cấp các chỉ dẫn cụ thể về tộc thuộc hoặc ngôn ngữ. Nếu các di tích khảo cổ học về Sa Huỳnh thực sự đại diện cho người Chăm thì các di tích xa về phía Nam của vùng này dường như lại được phản ánh trong các sử liệu Trung Quốc viết về Lâm Ấp. Hơn nữa, ngoài các di tích khảo cổ học ra thì không có ghi chép đương thời nào khác của địa phương (chẳng hạn bi ký) cho đến khi có tấm bia chữ Chăm đầu tiên có niên đại giả định thuộc thế kỷ IV, và muôn hơn đôi chút là các bi ký chữ Phạn gắn liền với Champa, nhưng toàn bộ các bi ký này dường như cũng là phía nam Lâm Ấp như các văn liệu Trung Quốc mô tả. Stein cũng đã lưu ý về các vấn đề này, và sau khi đọc kỹ các nguồn tư liệu Trung Quốc liên quan, ông cho rằng trung tâm của Lâm Ấp sớm là ở Qusu [區鷫* Khu Túc?]/Ba Đồn, phía bắc của cái có vẻ được coi là trung tâm chủ yếu của người Chăm, và cho rằng sự hợp nhất giữa hai vùng – nếu điều đó đã xảy ra – không phải mãi cho đến thế kỷ thứ VI. Tuy nhiên ông cũng nhận rằng, thủ đô của Lâm Ấp mà người Trung Quốc đã cướp phá năm 605 có lẽ là Trà Kiệu, nơi mà các phát hiện khảo cổ học dường như cho thấy là thuộc về Champa, và có thể là trung tâm của Champa từ thế kỷ I hoặc thế kỷ II 34.

Trong một xuất bản phẩm trước đây, tôi cho rằng Lâm Ấp về mặt ngôn ngữ là thuộc Mon – Khmer, nhưng có lẽ tôi thấy rằng một bộ phận của nó có thể bị hấp thu vào Champa trong thời gian người Trung Quốc vẫn còn đang sử dụng cái tên Lâm Ấp, và điều đó được thể hiện trong cuộc xâm chiếm năm 605 như đã được Stein phân tích 35. Có lẽ tôi vẫn thiên về ý kiến cho rằng nhóm ngôn ngữ-tộc người chủ yếu của Lâm Ấp là Mon-Khmer, có lẽ thuộc ngành Katu, hoặc thậm chí thuộc ngành Việt hoặc Việt Mường chuyển về phía bắc khi người Trung Quốc lần đầu tiên biết về họ, cho đến khi họ hợp nhất thành cái mà cuối cùng trở thành Việt Nam đầu tiên. Giờ đây các nhà ngôn ngữ cho rằng địa bàn gốc của các ngôn ngữ Việt – Mường là Nghệ An, và Urheimat [Nguyên quán*] của ngành Katu là ở Trung Lào 36. Cùng với quá trình này, người Chăm, mà trung tâm đầu tiên có nhiều khả năng nhất là Trà Kiệu, cũng đã mở rộng về phía bắc đến cái được gọi là lãnh thổ Lâm Ấp cổ, mà người Trung Quôc không biết hoặc không quan tâm đến nó, chính là các phức hợp ngôn ngữ-tộc người được tiếp tục gọi là “Lâm Ấp” cho đến giữa thế kỷ VIII.

Gợi ý buổi đầu của tôi là Lâm Ấp là Mon-Khmer căn cứ vào tước vị Fan được người Trung Quốc sử dụng cho cả thủ lĩnh Lâm Ấp lẫn một số thủ lĩnh sớm của Phù Nam, và đối với Phù Nam, tôi thấy tương ứng với tước vị poñ được sử dụng cho thủ lĩnh địa phương, vẫn thường thấy trong các bi ký Khmer thế kỷ VII, nhưng lại không bao giờ thấy kể từ giữa thế kỷ VIII. Poñ là tước vị Khmer duy nhất hoàn toàn tương đồng về nghĩa với Fan, cách phát âm cổ là b’iwAm 37Fan đầu tiên ở Lâm Ấp là Fan Xiong/Phạm Hùng [范 熊* Phạm Hùng] được ghi lại vào thế kỷ IV còn Fan cuối cùng là thế kỷ VII. Về sau không thấy Fan xuất hiện trong danh mục sử liệu Trung Quốc và Việt Nam viết về các thủ lĩnh Lâm Ấp và Champa nữa. Hệt như một Fan nào đó trong sử liệu Trung Quốc về Phù Nam đã được mô tả là “tướng” nhưng lại không phải là các thủ lĩnh trị vì, còn các poñ nào đó trong các bi ký Khmer thế kỷ VII lại là những hình tượng tối cao khác trong vùng của họ, vì vậy tại Lâm Ấp cũng có Fan, không được coi là những người trị vì. Một Văn nào đó, xuất thân nghèo khổ nhưng cuối cùng đã trở thành Fan, được mô tả là đã trở thành thủ lĩnh tại Tây Quyển, nhưng lại không phải là người trị vì Lâm Ấp, có tên là Fan Chui [范神成* Phạm Chút, Phạm Trần Thành] ; có một nhân vật Fan Jian 健* [Phạm Kiện] , là tướng của thủ lĩnh Lâm Ấp Fan Huda [范胡達* Phạm Hồ Đạt]; hai Fan khác không phải là vua cũng thấy dưới triều Fan Yang Mah [范陽邁*Phạm Dương Mại]; một sứ thần của Fan Yang Mah II đã được phong tước Fan Long Pa; và một Phạm (= Fan) nào đó tên Côn Sa Đạt … không được Maspéro đề cập đến, nhưng lại được ghi trong chính sử Việt. Còn có một Fan Xiong [范 熊* Phạm Hùng] thứ hai dường như đã cạnh tranh với người trị vì Lâm Ấp Fan Huda[范胡達* Phạm Hồ Đạt] bằng việc gửi một sứ thần đến Trung Quôc, khiến cho Maspéro đã có đôi chút hư cấu lịch sử 38.

Từ thế kỷ thứ V đến giữa thế kỷ VIII có hai tập hợp sử liệu – các bi ký bằng chữ Chăm và các bi ký chữ Phạn ghi lại các hoạt động (thường là gây chiến) của Lâm Ấp dưới sự lãnh đạo của các Fan. Đối với Maspéro, và đối với hầu hết các sử gia sau này, hai tập ghi chép ấy liên quan đến cùng một chính thể, và những cái tên Ấn Độ trong các bi ký được đồng nhất với những cái tên Fan như đã thấy qua các sử liệu Trung Quốc. Các di tích kiến trúc thế kỷ VII – VIII phía nam Huế, thuộc lưu vực sông Thu Bồn rõ ràng thuộc về một chính thể có thể có lý để gọi là “Champa”, bổ sung cho các bi ký, trong khi các nguồn sử liệu Trung Quốc và sau này là Việt Nam tiếp tục cho biết những cái tên mà Maspéro đồng nhất với cùng các nhân vật trị vì thường với nhiều tưởng tượng.

Lẫn lộn nghiêm trọng trong cách xử lý của Maspéro về các sử liệu Trung Quốc và các bi ký Champa bắt đầu từ sớm, trong “triều đại thứ hai” (336 – 420) của mình, ông đã kê ra cái tên Bhadravarman [भद्रवर्मन्*] đầu tiên (rõ ràng là thấy trong ba bi ký được định niên đại dựa vào khoa nghiên cứu cổ bản thuộc thế kỷ V) được tiếp tục bởi một गंगाराज* Gaïgārāja nào đó mà ông đã đồng nhất với một Di Zhen nào đó trong văn liệu Trung Quốc ghi chép về Lâm Ấp; tuy nhiên गंगाराज* Gaïgārāja chỉ được đề cập theo cách hồi tưởng trong bi ký C96 năm 658 của Vikrāntavarman [विक्रान्तवर्मन्*]. Sau đó trong toàn bộ giai đoạn từ đầu thế kỷ V đến thế kỷ VII ngay cả bi ký C96 cũng không có bi ký nào, vì vậy mà cái tên chữ Phạn không chắc chắn, có thể được phân tích để thể hiện một Fan trị vì cho đếnरुद्रवर्मन्* Rudravarman I, lại được đặt tên theo cách hồi tưởng trong bi ký năm 658 và cái tên đó đã được phiên âm một cách đáng tin cậy bằng chữ Hán là Lu-tuo-luo-ba-mo [庐陀罗跋摩* Lư Đà La Bạt Ma*] trong một sử liệu ghi năm 52939. Một cái tên वर्मन्* varma (chữ Hán là ba-mo 跋摩*) khác Pi-cui-ba-mo [范 弼毳跋摩* Phạm Bật Thuế Bạt Ma*] xuất hiện sớm hơn đôi chút trong sử liệu Trung Quốc, được Maspéro định niên đại 526-7 và dịch ra chữ Phạn không phải là không có lý विजयवर्मन्* Vijayavarman – nhưng lại không hề thấy trong bi ký. Tuy nhiên cái tên của người kế vị Vijayavarman được khôi phục lại – Devavarman देववर्मन्*từ Fan Tiankai [范天凱* Phạm Thiên Khải*] thì lại không thể chấp nhận được, cho dù Pelliot hoàn toàn không phản đối 40. Vì vậy, đối với cái mà Maspéro gọi là “triều đại thứ ba” (420 – 530), tôi sẽ nói rằng cái mà chúng ta có là Lâm Ấp theo sử liệu Trung Quốc , nhưng có lẽ lại không hề có gì về Champa. Đối với “triều đại thứ tư” (529 – 757), toàn bộ những cái tên tiếng Phạn đều là của những người kế vị trong bi ký Vikrāntavarman năm 658, ngoại trừ रुद्रवर्मन्* Rudravarman đệ nhị.

Cách xử lý mới mẻ và triệt để nhất về chủ đề này là Southworth. Ông chấp nhận các bằng chứng văn bản Trung Quốc cho rằng Lâm Ấp gốc là ở phía bắc Huế và trình bày một phát hiện mới từ các nguồn Trung Quốc – “một trong những điều ngạc nhiên nhất của đề tài này”, cụ thể là “có các tư liệu nói về mười vương quốc dọc ven biển Việt Nam, bao gồm cả vương quốc Tây Đồ…[通典,卷一八八林邑國條,又注引,林邑國記之西屠國* – Sách Thông điển quyển nhất bát bát Lâm Ấp điều, hựu chú dẫn Lâm Ấp quốc ký chi Tây Đồ quốc* – Sách Thông điển, quyển 188, hạng mục Lâm Ấp, có chú dẫn Lâm Ấp quốc ký nói về nước Tây Đồ*]…là nước đầu tiên trong số các quốc gia độc lập cách Lâm Ấp 200 dặm (100 – 120km) về phía nam, “cho thấy một cách khá chắc chắn vị trí của quốc gia này nằm trong hệ thống lưu vực sông Thu Bồn” 41. Sau đó vào các thế kỷ V-VI (giai đoạn mà cả Stein và Boisselier đều đồng ý là Lâm Ấp gốc có thể đã hợp nhất với Champa sớm), “sự phân biệt giai đoạn đầu giữa Lâm Ấp và Tây Đồ trong các sử liệu Trung Quốc đã dần dần trở nên lẫn lộn và các ghi chép về lịch sử của họ đã hợp nhất lại”. Điều này thấy rõ trong các mâu thuẫn giữa hai bộ sử Trung Quốc khác nhau cùng ghi về giai đoạn này. Trong Nam sử thì vua Lâm Ấp Fan Hu-da, tài liệu muộn nhất xác định niên đại là năm 413, đã nhường ngôi cho người con trai Fan Yang-mai, mà niên đại đầu tiên của vị này lại là niên đại mà một phái bộ được gửi đến Trung Quốc, năm 421. Tuy nhiên trong Lương thư, Fan Hu-da lại truyền ngôi cho con là Di-zhen, là người đã thoái vị để nhường cho ngôi cho một người cháu, rồi người này bị giết, sau đó một người anh em của Di-zhen [敵真* Địch Chân] đã lên ngôi có tên gọi là Wen-di [文敵 Văn Địch]. Đến lượt mình, ông lại bị người con trai của vua Phù Nam giết chết; một Fan khác là Fan Zhou-nong, [范諸農* Phạm Chư Nông] đã trở thành vua và con trai ông là Fan Yang-mai [范陽邁* Phạm Dương Mại] kế vị, rồi gửi sứ bộ sang Trung Quốc vào năm 421 42. [文敵後為扶南王子當根純所殺,大臣范諸農平其亂,而自立為王. 諸農死,子陽邁立*. Văn Địch hậu vi Phù Nam vương tử đương căn thuần sở sát, đại thần Phạm Chư Nông bình kỳ loạn, nhi tự lập vi vương. Chư Nông tử, tử Dương Mại lập – Sau đó Văn Địch bị con của Phù Nam vương là Đương Căn Thuần giết, đại thần Phạm Chư Nông dẹp xong loạn ấy, tự lập làm vua. Chư Nông chết, con là Dương Mại kế vị*].

Như Southworth đã lưu ý, khó mà có đủ thời gian cho bấy nhiêu sự kiện xảy ra trong vòng từ năm 413 – 421, và người Trung Quốc chắc chắn đã đưa nhầm câu truyện của một chính thể khác vào đó. Cái tước vị Di/Địch trong tiếng Hán và tiếng Việt hoàn toàn không có trong truyền thống Lâm Ấp như cách ghi của người Trung Quốc, còn báo cáo của họ thì ghi lại rằng Di Zhen/Ðịch Chân đã từ bỏ ngai vàng và đi hành hương đến sông Hằng tại Ấn Độ đã đồng nhất ông với Gaïgārāja trong bi ký C96 Mỹ Sơn. Vậy là người có tên Địch là thuộc lưu vực sông Thu Bồn, có thể là Tây Đồ, và đó được gọi là “sự trùng hợp rõ ràng sớm nhất giữa một vị vua Lâm Ấp được sử sách Trung Quốc cung cấp với một người trị vì được ghi trong bi ký thuộc lưu vực sông Thu Bồn” 43. Có lẽ tôi vẫn muốn coi Gaïgārāja không phải là một vị vua lịch sử, mà là tổ tiên huyền thoại của dòng dõi Thu Bồn đầu tiên, không chỉ được đề ập đến trong bi ký C96, mà còn cả trong bi ký C73A là Gaïgeśa, còn trong bi ký C81 là Gaïgeśvara. Vậy là người Trung Quốc, trong tích truyện về Di-zhen đã ghi lại một huyền thoại Thu Bồn. Nó đã không làm giảm giá trị kết luận của Southworth về sự trùng hợp giữa các nguồn sử liệu Trung Quốc về Lâm Ấp và bi ký Thu Bồn.

Kể từ đó, theo Southworth, cái tên Lâm Ấp có thể được coi là để chỉ vùng lưu vực sông Thu Bồn thuộc Champa; và ông kết luận rằng cái nhà nước Tây Đồ được công nhận trước đây đã hấp thụ “lãnh thổ, các truyền thống chính trị cũ, và hấp thụ cả các nhượng địa thương mại của người láng giềng phía bắc là Lâm Ấp” 44. Tuy nhiên điều đó lại không có ích gì với tám thủ lĩnh Fan được người Trung Quốc ghi lại từ khoảng năm 420 đến giữa thế kỷ VI, khi không hề có bi ký Champa; và nếu sự thật là Lâm Ấp và tước vị Fan là Mon-Khmer thì khó mà chấp nhận rằng Fan bị người Cham thay thế khi họ đã chấp nhận sử dụng các tước vị Phạnvarman và dharma. Tất nhiên sự thật thì yang (một tước vị để chỉ thần hoặc hoàng gia) mai/mah (vàng) nghe có vẻ Nam Đảo, và bi ký C96 – được cho là quay trở lại với thế kỷ V – đã cho thấy rằng người Chăm không thể hoàn toàn chấp nhận một truyền thống những cái tên varma (chữ Hán là ba-mo 跋摩*) cho những người trị vì của họ.

Southworth không quan tâm đến sự khác biệt khả dĩ về ngôn ngữ-tộc người giữa Lâm Ấp và Champa. Ông thừa nhận rằng chúng có thể là một – tức là ngôn ngữ – tộc người Nam Đảo – nhưng lại không hề chú ý chút nào đến vấn đề này, mà chỉ nói rằng khi người Trung Quốc cướp phá thủ đô Lâm Ấp vào năm 605, họ đã phát hiện được những cuốn sách bằng chữ Côn Lôn, “có vẻ là một loại phương ngữ Chăm hoặc Nam Đảo” 45. Điều đó không chắc đúng. Những gì liên quan đến Côn Lôn đều chỉ cho biết rằng đó có nghĩa là một ngôn ngữ nào đó thuộc Đông Nam Á hải đảo mà thôi, và cũng có thể ám chỉ đến Mon-Khmer cũng hệt như đối với Nam Đảo vậy. Thật ra thì nếu Côn Lôn là cách thể hiện theo kiểu Trung Quốc của kuruï, như ai đó đã nói thì hầu như chắc chắn đó là Mon-Khmer hơn là Nam Đảo. Southworth cho rằng thủ đô bị cướp phá chính là Trà Kiệu, một di chỉ văn hóa Chăm được nghiên cứu sớm nhất về khảo cổ học.

Trường hợp đầu tiên trong đó các sử liệu Trung Quốc ghi về Lâm Ấp dường như thống nhất từng chữ với một cái tên thủ lĩnh Champa trong một bi ký là 庐陀罗跋摩* Lu-tuo-ba-mo, Lư Đà La Bạt Ma* cho रुद्रवर्मन्* Rudravarman ngay từ thế kỷ VI. Sau đó các sử liệu Trung Quôc có ghi ba cái tên Fan nữa, nhưng những cái tên này, pace [xin mạn phép] Maspéro, lại không hề phù hợp với các bi ký Champa. Sau đó, ngoại trừ ba cái tên được đề cập ở trên, thì không hề còn bất cứ Fan nào khác nữa tại Lâm Ấp hoặc Champa, nhưng cái tên Phạm (dịch âm tiếng Việt từ chữ Hán Fan) lại rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Cho đến thế kỷ thứ VII toàn bộ Fan/ Phạm, với một ngoại lệ khả dĩ, là những người trị vì, các vị tướng hoặc quan chức cao cấp Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp cuối cùng có cái tước vị đó là Fan Zhenlong [范鎮龍* Phạm Trấn Long] vào giữa thế kỷ VII; từ đó tước vị này không bao giờ được dùng trong lịch sử Việt viết về Champa, nhưng chỉ đối với tiếng Việt. Một trường hợp không rõ ràng duy nhất được sử dụng để chứng minh cho quan điểm này là vào giữa thế kỷ VII, Phạm Tu, một vị tướng của cuộc nổi loạn Lý Bí (Lý Bôn) được Maspéro mô tả là một Annamite, là người đã lật đổ thứ sử Tiêu Tư của Trung Quốc. Phạm Tu đã đánh bại một cuộc tấn công của vua Lâm Ấp Rudravarman 46. Phạm Tu rất có thể là một người nào đó của Lâm Ấp cũ đã trở thành bè cánh của người Việt, kiên định với cuộc bắc tiến của Lâm Ấp cũ, trong khi người Trung Quốc lại sử dụng cái tên Lâm Ấp cho một trung tâm quyền lực khác là Champa 47. Theo tôi thì vào thời Rudravarman, các thủ lĩnh Mon-Khmer (Katu hoặc Việt Mường) của Lâm Ấp đã bắc tiến và hợp nhất với các tộc Việt của Giao Chỉ, và tự tồn tại với tư cách là một nhóm có vị thế cao 48.

Sau đó, từ giữa thế kỷ VIII, Lâm Ấp biến mất, bi ký mới xuất hiện ở phía Nam, và không có các sử liệu Trung Quốc ghi về những người trị vì ở đó hoặc ở nơi được gọi là Hoàn Vương. Giai đoạn này sẽ được thảo luận ở phần dưới. Trong phần giới thiệu, Tống Hội yếu (đã có bản dịch tiếng Anh của Geoff Wade) nói rằng “trong các triều địa trước, đất nước này [Chiêm Thành] hiếm khi tiếp xúc với Trung Quốc”, điều đó dường như cho thấy rằng các sử gia Trung Quốc đời Tống đã không coi Champa là Lâm Ấp, mà lịch sử về quốc gia này lại hoàn toàn dựa vào các ghi chếp về các mối quan hệ với Trung Quốc 49. Một điều đáng ngờ khác về sự đồng nhất giữa Champa sớm và Lâm Ấp ngầm ẩn trong các ghi chép của Huyền Trang và Nghĩa Tĩnh, trong đó có nói về “Chiêm Bà” rõ ràng là cố gắng dịch âm “Champa” sang Hán ngữ. Điều đó cho thấy rằng các bộ sử chính thức của Trung Quốc, sau đó chỉ viết về Lâm Ấp, đã bỏ qua Champa đã tồn tại và tách riêng, có lẽ vì các trung tâm Champa chưa đủ phát triển để bắt đầu thu hút được mối quan tâm của người Trung Quốc với tư cách là các đối tác thương mại hoặc các chính thể thần thuộc 50.

Tất cả các sử gia buổi đầu đồng nhất Lâm Ấp với Champa sớm đều tin tưởng rằng người Chăm đã di chuyển trên đất liền đến các khu sinh cư mới và vì vậy mà đã có mặt ở vùng được gọi là bắc bộ và trung bộ Việt Nam ngày nay trong hàng trăm năm, thậm chí có thể là hàng ngàn năm. Sự đồng thuận mới dựa trên ngôn ngữ học cho rằng người Chăm chỉ đến đó bằng đường biển vào các thế kỷ cuối cùng TCN, có lẽ với số lượng tương đối nhỏ, trong một vùng đã có người của các nhóm ngôn ngữ-tộc người khác cư trú, và sau đó đã phát triển về phía tây, đến vùng Tây Nguyên, dường như khó mà tin được rằng vào các thế kỷ đầu SCN họ đã có thể thống trị một vùng xa hơn về phía bắc mà các lý giải của người Trung Quốc về Lâm Ấp ngụ ý. Mãi về sau này họ đã thực sự mở rộng sang các lãnh thổ của của lâm Ấp tại Quảng Trị và Quảng Bình và có thời người Trung Quốc dường như đã phải sử dụng cái tên cũ “Lâm Ấp” cho cái thực sự là “Chiêm Bà” mới.

Các mối quan hệ với Giao Chỉ và Việt Nam

Quan điểm thông thường về các mối quan hệ giữa Champa và những người láng giềng phía bắc của nó (gồm cả Lâm Ấp) đều cho rằng phương bắc thường xuyên gây chiến. Như Nayan Chanda dẫn Paul Mus, người Việt tràn khắp Đông Dương giống như một cơn lũ cuốn theo những dân tộc khác ở bất cứ nơi đâu họ khai thác các cánh đồng lúa nước hoặc bất cứ nơi nào có thể cắm được cây lúa”. Trong nhiều năm trời, Michael Cotter đã nghiên cứu cuộc Nam tiến và coi đó như một chuẩn mực 51. Cho đến rất gần đây, khi có sự tiến triển trong số các nhà nghiên cứu Việt Nam, vẫn không có một sử gia nào có cái nhìn phê phán về मान्त्र*mantra câu thần chú kinh tế chính trị Việt Nam cổ này 52. Ngược lại, chỉ có các ghi chép gốc của người Trung Quốc về Lâm Ấp mới luôn luôn than phiền về tình trạng Lâm Ấp gây hấn chống lại Giao Chỉ, một cuộc Bắc tiến thực sự, hơn là cuộc Nam tiến bị quy cho người Việt như là chính sách hằng xuyên của họ. Như sẽ thấy dưới đây, tình hình đó tiếp diễn cho đến khi có cuộc nổi dậy giành độc lập đầu tiên của Lý Bí, và cuộc chiến đầu tiên giữa một Việt Nam hoàn toàn độc lập vào thế kỷ X và Champa bắt đầu với sự can thiệp của Champa vào chính trị nội bộ của Việt Nam.

Sau các cuộc xung đột giữa hai phe hầu như ngang sức nhau, và trong phần tư cuối cùng của thế kỷ XIV (1360-90) người Chăm gần như đã chinh phục được toàn bộ Việt Nam. Chỉ sau thất bại của cuộc phiêu lưu mà Đại Việt rõ ràng là ưu trội; vì vậy mà thuật ngữ Nam tiến, nếu có gì đó chính xác, mới có thể được áp dụng từ đầu thế kỷ XV. Thực ra thì một thế hệ học giả mới nghiên cứu về Việt Nam hoàn toàn phản đối khái niệm Nam tiến. Như Li Tana đã đưa ra, đó là “một loạt những tình tiết khác nhau phản ứng lại với các sự kiện hoặc các cơ hội”; và Keith Taylor, một sử gia hàng đầu về Việt Nam đã viết “Tôi không tin rằng một sự kiện như vậy [Nam tiến] đã xảy ra”. Giống như Li Tana, ông viết một cách chi tiết hơn về hàng loạt tình tiết 53.

Lịch sử Tự sự Champa

Phần này liên quan đến một phê phán về lịch sử các sự kiện như đã đượcMaspéro mô tả, một loại lịch sử được hầu hết những người đi sau chấp nhận. Người đưa ra cảnh báo sớm về Maspéro là Rolf Stein, ông đã nói: “Các sử gia không phải là các nhà Hán học và chỉ có lối tiếp cận duy nhất với công trình của Maspéro có thể dễ dàng bị dẫn đến lầm lạc, không chỉ bởi một số sai lầm trong các bản dịch của ông, mà quan trọng nhất là bởi vì các mô tả của Maspéro luôn luôn là những sản phẩm tái dựng: các văn bản sử liệu Trung Quốc luôn luôn không hoàn thiện và luôn mâu thuẫn. Maspéro đã lấy các phần khác nhau [của các văn bản này] và không có bất cứ sự đối sánh mang tính phê phán nào, rồi kết hợp vào một tích truyện liên tục dường như được ủng hộ bởi văn bản khi trong thực tế [chính là trường hợp này] lại chỉ ủng hộ cho những yếu tố khác nhau xuất phát từ các nguồn khác nhau của những niên đại khác nhau mà thôi” 54. Và điều đó có nghĩa là lịch sử tự sự của Maspéro về Champa đôi khi lại là lịch sử hư cấu.

Mặc dù sau đó Stein chỉ nghiên cứu về vấn đề Lâm Ấp, nhưng phê bình Maspéro của ông rất giá trị đối với toàn bộ công trình Le royaume de Champa Vương quốc Champa, không chỉ về khía cạnh Maspéro sử dụng các nguồn chữ Hán, mà còn cả cách thức xử lý các bi ký của ông; một trong những mục tiêu ở đây là lọc ra các bằng chứng đằng sau tổng hợp quá nhiệt huyết của Maspéro. Tuy nhiên ngoại trừ vấn đề Lâm Ấp tôi sẽ chỉ quan tâm đến các giai đoạn lịch sử Champa nào có đủ bằng chứng từ các bi ký Champa để so sánh với các tổng hợp của Maspéro căn cứ vào việc sử dụng các nguồn sử liệu Trung Quốc và Việt Nam. Có những giai đoạn dài, ví dụ như chương 8 Cuộc chiến đấu với quân Mông trong công trình của Maspéro và phần lớn trong chương 9 Thiên đỉnh, chẳng hạn cuộc xâm lấn Việt Nam của người Chăm vào cuối thế kỷ XIV và các sự kiện dẫn đến trận đánh chiếm Vijaya năm 1471 không hề có trong bi ký và lịch sử để định niên đại đã được biên soạn hoàn toàn dựa vào các bộ sử Trung Quốc và Việt Nam, kể cả việc phải dựa vào các công trình biên soạn mới đây. Cũng không có gì phải nghi ngờ về những sai lầm ở đó, nhưng việc hiệu chỉnh sẽ tùy thuộc vào đội ngũ chuyên gia có năng lực xem xét lại một cách triệt để các nguồn tư liệu ấy.

Đặc biệt tôi muốn chỉ ra rằng không có một vương quốc hoặc một quốc gia Champa duy nhất, và các vùng được phân biệt bởi khoa nghiên cứu bi ký (đã được thảo luận ở trên) và tương hợp với phạm vi địa lý của chúng, thường là nhưng chính thể hoàn toàn riêng biệt, thậm chí thù địch. Như đã được thảo luận ở trên, tôi coi việc Lâm Ấp không phải Champa là đương nhiên – ngoại trừ khả năng từ đầu thế kỷ thứ VII, khi một chính thể Champa mở rộng đã chiếm được lãnh thổ Lâm Ấp cũ và nó đã được cho là tên mà sử liệu Trung Quốc nói về vùng này. Phản đối đầu tiên đối với cách giải thích này trong một công trình lịch sử đáng tin cậy mà tôi đã đọc của Keith W. Taylor: “Champa là một thuật ngữ chung để chỉ ác chính thể được các cư dân nói tiếng Nam Đảo tổ chức dọc theo ven biển miền trung Việt Nam…một không gian chính trị – văn hóa biển đảo”. Khẳng định của Taylor là dựa vào việc nghiên cứu và viết lách của Nora Taylor, với “lập luận cơ bản cho rằng Champa chưa bao giờ là một vương quốc thống nhất, mà đúng ra là những nhóm quyền lực riêng biệt cạnh tranh với nhau” – quan điểm ấy được chấp nhận ở đây. Trong số các chuyên gia về Champa năng động hiên nay, William Southworth cũng đã tuyên bố một cách không hề e dè rằng “Champa” bao gồm các thực thể độc lập 55.

Như đã lưu ý ở trên, hai bi ký đầu tiên – Võ Cạnh gần Nha Trang và Đông Yên Châu – là những hồ sơ biệt lập, không thể gộp vào lịch sử Champa được, và Champa đầu tiên trong đó sự phát triển liên tục đã được thể trong các bi ký được phát hiện tại lưu vực sông Thu Bồn tập trung ở Mỹ Sơn, trong tỉnh Quảng Nam ngày nay.

Các vua đầu tiên có tên trong các bi ký

Ngoại trừ việc đồng nhất một cách sai lầm với các thủ lĩnh Lâm Ấp và các diễn giải thêm, sau đó thì vẫn có một chút gây tranh cãi về cách xử lý của Maspéro đối với các thủ lĩnh Champa sớm nhất. Ba bi ký tiếp theo được định niên đại dựa vào cổ tự dạng trong thế kỷ thứ V dâng lên thần भद्रस्वरस्वामिन्* Bhadreśvarasvāmin; tác giả của hai trong ba bi ký đó là một भद्रवर्मन्* Bhadravarman, cũng được cho là tác giả của cả bi ký thứ ba. Mặc dù hai bi ký đầu được viết bằng tiếng Phạn và không đặt tên là “Champa”, nhưng các vị trí phát hiện được bia theo bằng chứng bi ký Đông Yên Châu, cho phép đồng nhất chúng với Champa. Một bi ký được phát hiện tại Mỹ Sơn, cái thứ hai ở gần đó, còn cái thứ ba ở cửa sông Đà Rằng, gần Tuy Hòa, cách Mỹ Sơn khá xa về phương Nam. Sự phân bố ấy rất phù hợp với việc xác định Champa là một xã hội chuyên đi biển, tuy nhiên cho dù không đúng với kết luận của Finot cho rằng “cả ba bi ký có tên của Bhadravarman đã chứng tỏ thêm rằng người Chăm đã tạo dựng một nhà nước thống nhất chứ không phải là một loạt tiểu quốc độc lập” 56. Finot đã chắc chắn sai lầm về sự thống nhất của Champa.

Một hồ sơ quan trọng tiếp theo của hoàng tộc Champa sớm được coi là bi ký C96 bằng tiếng Phạn, được xác định niên đại là năm 658; điều đáng chú ý không chỉ đối với lịch sử Champa, mà còn đối với cả sự lưu trú tạm thời của một hoàng tử Champa tại đô thành chính của Cambodia vào thế kỷ VII, ở đó ông đã cưới con gái của nhà vua Īśānavarman, một trường hợp hiếm hoi của mối quan hệ thân tình giữa các vùng sau đó thường xuyên gây chiến với nhau. Đây là ghi chép đầu tiên của địa phương cái tên Champa (chữ Phạn ghi là Campāpura [चम्पापुर* vàCampānagara चम्पानगर*) và nó tương đối đồng đại với bi ký chữ Phạn K.54 của Cambodia ghi lại sự kiện vào năm 667 đã gửi một sứ bộ đến người trị vì Campa (चम्पास्वर* Campeśvara). Bi ký C96 bắt đầu với một vị vua गंगाराज* Gaïgārāja, là người đã thoái vị để hành hương sông Hằng. Sau đó có những vị vua có tên là Manorathavarman (मनोरथवर्मन्*?, một cái tên được Coedès phục dựng giả định), Rudravarman, सम्भुर्मन्* Śambhuvarman, कन्दर्पधर्म* Kandharpadharma và những cái tên khác nữa, mà cuối cùng là प्रकाशधर्म* Prakāśadharma 諸葛地* Chư Cát Địa – विक्रान्तवर्मन्* Vikrāntavarman, tiếp theo là tích truyện chen ngang liên quan đến Cambodia 57.Một phần của chính phả hệ hoàng tộc Champa ấy dường như được phát hiện trên bi ký Mỹ Sơn C73A, bị vỡ nát và không dịch có kê tên गङ्गासा* Gaïgeśa, Rudravarman, Śambhuvarman, Kandharpadharma, và Prakāśadharma, cùng với dẫn chiếu rõ ràng là hồi tưởng về Bhadravarman (không có tên trong bi ký C96)58. Những ánh xạ của cùng một tích truyện còn thấy trong chính bi ký vỡ vụn C81 ở Mỹ Sơn, trong đó một vua Champa có tên là Prakāśadharma, có lẽ còn có tên là Vikrāntavarman, có vẻ được gọi là dòng dõi गङ्गास्वर* Gaïgeśvara’ (Gaïgeśvaravaïśajaþ). Ngoài ra cũng còn có hai cái tên Bhadravarman và Rudravarman 59.

Điều này tất nhiên mâu thuẫn với đề xuất đáng chú ý của Southworth, đã lưu ý ở trên cho rằng tích truyện Trung Quốc về một Địch Chân nào đó đã từ bỏ ngai vàng và hành hương đến Hàng Hà tại Ấn Độ đã đồng nhất ông với Gaïgārāja trong bi ký C96 Mỹ Sơn, và là sự trùng hợp đầu tiên của một cá nhân được sử liệu Trung Quốc ghi lại với một vị vua trong một bi ký Champa. Maspéro cũng đã đồng nhất như vậy, nhưng đối với ông, điều đó không có ý nghĩa đặc biệt đối với giả thuyết đồng nhất Champa-Lâm Ấp của ông. Đối với Maspéro thì Bhadravarman là thủ lĩnh Lâm Ấp Phạm Hồ Đạt còn Địch Chân – Gaïgārāja là con trai của ông 60. Tuy nhiên tôi lại thấy rằng sự trùng hợp ấy cũng quan trọng như cách nhìn của Southworth, nhưng những gì mà sử liệu Trung Quốc ghi lại về truyền thống Champa trong con mắt họ – thì có lẽ lại là huyền thoại và không nhất thiết đã là những sự kiện có thật trong đời sống của một vị vua.

Ngược lại với Maspéro, đồng nhất Bhadravarman với Phạm Hồ Đạt của Lâm Ấp, khi đặt Gaïgārāja lên trước, Southworth cho rằng “nội dung tôn giáo, tước vị hoàng gia, và khoa nghiên cứu cổ tự các bi ký về Bhadravarman đã không ủng hộ cho cách định niên đại sớm như vậy” và “triều đại của ông có thể đã bị đặt sai mốc thời gian giữa Manorathavarman và … Rudravarman”. Điều đó không thống nhất với các cách đọc rõ ràng các bi ký bị vỡ C73A và C81, đã không được cả Maspéro hoặc Southworth lưu ý, và bi ký (nhất là C73A) dường như lại thuộc về Bhadravarman với tư cách là tổ tiên và người đã xây dựng khu đền miếuश्रीसनभद्रास्वर Śrīśānabhadreśvara ở Mỹ Sơn 61.

Một số công trình kiến trúc và điêu khắc quan trọng đã được xác định niên đại trong giai đoạn này; về phương diện này, Trà Kiệu mà tầm quan trong của nó đã được khảo cổ học chỉ ra có lẽ còn ấn tượng hơn cả Mỹ Sơn, mặc dù không còn công trình xây dựng nào tồn tại đến bây giờ, và mặc dù nơi đây chưa phát hiện được bi ký. Tiếp theo giai đoạn dài nổi trội của lưu vực Thu Bồn, mà đối với người Trung Quốc vẫn thuộc Lâm Ấp, thì bối cảnh lịch sử thay đổi đột ngột phải chuyển về phương Nam, Phan Rang (Pāõóuraïga ) và Nha Trang mà Maspéro đã sử dụng thuật ngữ không chính xác, như tôi sẽ nói rõ – “Hoàn Vương và Bá chủ Pāõóuraïga62.

Hoàn Vương

Hoàn Vương [環王國*] xuất hiện trong các bộ sử Trung Quốc vào giữ thế kỷ VIII, ngay sau khi cái tên Lâm Ấp không còn được sử dụng nữa; trong thực tế, một số bộ sử chính thống đã cho thấy rõ ràng là cái tên “Hoàn Vương” được dùng thay cho cái tên “Lâm Ấp”. Cái tên này chưa bao giờ được diễn giải cho thấu đáo, nhưng nghĩa đen của nó thì rõ ràng là “vòng tròn”, “phạm vi” cuả “nhà Vua” 63. Vì環王國 Hoàn Vương chỉ xuất hiện khi khoa nghiên cứu bi ký kết thúc ở phía bắc Champa và tiếp tục trong vòng 100 năm ở phương Nam (Phan Rang và Nha Trang), các nhà nghiên cứu vùng này trước đây (đặc biệt là Maspéro), vẫn tiếp tục tin rằng Lâm Ấp và Champa là một và duy nhất, đã đồng nhất Hoàn Vương với Champa, và đặc biệt là với “Bá chủ Pāõóuraïga”, mặc dù khoảng cách lớn giữa Pāõóuraïga và cái tỏ ra là khu vực Hoàn Vương trong các sử liệu Trung Quốc.

Pelliot nhìn vào việc xác định vị trí của環王國 Hoàn Vương trong nghiên cứu của ông về tuyến đường Jiadan đã đi, và suy luận rằng ranh giới của nó là ở Đồng Hới, với cuộc hành trình hơn sáu ngày thì đến kinh đô. Tuy nhiên Stein vẫn cho rằng cái ranh giới mà Pelliot đặt ở Đồng Hới là xa hơn về phía bắc trên bờ sông Gianh. Họ cũng không thống nhất với nhau về kinh đô Hoàn Vương, đi một vài ngày về phương Nam thì đến. Pelliot tin rằng Hoàn Vương là Champa, nên muốn đặt nó ở Quảng Nam trên cơ sở những cái tên kinh đô Chăm mà Aymonier đã phát hiện được trong biên niên sử của hai chính thể đó. Stein cũng thận trọng – khi có vẻ như thiên về định vị nó giữa Quảng Trị và Huế. Tuy nhiên cả hai đều quá quan tâm đến việc đồng nhất giả định Hoàn Vương với Lâm Ấp và việc liệu kinh đô của chính thể này cũng là của chính thể kia, và là của Champa hay không 64. Việc chấp nhận rằng Hoàn Vương là một vùng ở phía Bắc, hoàn toàn riêng biệt với Pāõóuraïga Chăm, có nghĩa là có rất ít thứ để có thể nói về điều đó, vì những ghi chép của người Trung Quốc về nó rất thưa thớt và quá vắn tắt, không có tên thủ lĩnh, nhưng lại xác định rằng Hoàn Vương là một nguồn gây rắc rối, giống như Lâm Ấp sớm và các vùng bắc Champa vậy. Cả trong trường hợp đó thì điều này cũng có thể làm cho 環王國 Hoàn Vương phù hợp với vùng “triều đại thứ sáu” sau này của Maspéro, đó là Đồng Dương/Indrapura, nơi vẫn còn các công trình đền tháp quan trọng cho đến tận Quảng Bình (xem ở dưới).Các bộ sử chính thống của Trung Quốc không sử dụng cái tên Hoàn Vương vào năm 877, khi cho rằng nó được thay thế bằng Chiêm Thành (thành của người Chăm), không phải cách dịch âm Chiêm Bà có từ thế kỷ bảy; tuy nhiên theo một nguồn sử liệu Trung Quốc việc thay thế đó đã được thực hiện vào năm 809. Khi lưu ý về ghi chú của Tống Hội yếu lưu ý đã dẫn ở trên về sự tiếp xúc ít ỏi giữa Trung Quốc và Champa trong những thế kỷ đầu, có thể phỏng đoán rằng Hoàn Vương, mặc dù có thể là Chăm về phương diện ngôn ngữ lại không đồng nhất với cái chính thể mà người Trung Quốc gọi là “Chiêm Bà” ngay từ thế kỷ VII 65.

Như Boisselier đã đề xuất một cách thuyết phục: “Maspéro đã kết nối khá giả tạo cái “triều đại” mới [Panduranga] với “thị tộc Cau” … bằng cách đối lập nó với “thị tộc Dừa”, mà các triều đại phía Bắc đã được cho là xuất thân từ đó “một cách trực tiếp hơn”, ông tin rằng giai đoạn 環王國 Hoàn Vương này trùng hợp với “Bá chủ Panduranga” … Trong bất cứ trường hợp nào thì cũng không có bất cứ cho thấy rằng Panduranga…thực thi bất cứ loại bá chủ nào trong giai đoạn Hoàn Vương”66.

Ở đây Boisselier đã quy chiếu vào một niềm tin vững chắc của Maspéro cho rằng các gia tộc thống trị Champa được chia thành hai, thị tộc Cau và thị tộc Dừa; “hai thị tộc này”, Maspéro gợi ý “tranh giành địa vị tối cao qua nhiều thế kỷ … Thị tộc Cau cai trị nhà nước Panduranga trong khi thị tộc Dừa cai trị phía Bắc”. Ông triệu vời họ trong vài bối cảnh lịch sử Champa – khi tuyên bố, chẳng hạn “các bi ký ám chỉ các truyền thống huyền thoại … có hai truyền thống, mà một trong hai truyền thống đó dường như thuộc về đất nước của “thị tộc Cau”, còn truyền thống kia thì thuộc về đất nước của “thị tộc Dừa”. Uroja, Maspéro thêm, là “tổ tiên huyền thoại” của thị tộc Dừa 67. Tuy nhiên trong thực tế chỉ có một bi ký đề cập đến các thị tộc này, bi ký C90A Mỹ Sơn, có niên đại năm 1080, trong đó có nói rằng một vị vua Harivarman, là Hoàng tử Thãï, hậu duệ của cả hai thị tộc, thị tộc Dừa phía cha và thị tộc Cau phía mẹ. Trong các bi ký này không hề có bằng chứng nào về vị trí địa lý của cả hai thị tộc này. Như Huber đã lưu ý “các bi ký ấy không cung cấp cho chúng ta thông tin về thị tộc Cau và thị tộc Dừa ấy; và như Boisselier đã nhấn mạnh lại rằng “các tham chiếu vào các thị tộc “Cau” … và “Dừa”… chỉ xuất hiện khá muộn trong bi ký Chăm và hầu như là tình cờ” 68. Vì vậy, cùng với giả định rằng 環王國 Hoàn Vương đại diện cho bá chủ Pāõóuraïga, thì toàn bộ ghi chú của Maspéro về tầm quan trọng của các thị tộc này trong các mối liên hệ nội tại của Champa phải bị từ bỏ.

Panduranga

Trái ngược với việc diễn giải theo thông lệ, chúng ta đã thấy rằng có lẽ Hoàn Vương đã không đại diện cho toàn thể Champa, và và việc cung ứng nhất định trong thời gian đó, sẽ là sai lầm khi cho rằng Hoàn Vương, rõ ràng là ở phía Bắc theo các ghi chép của Trung Quốc, không thể đồng nhất với Pāõóuraïga [पाण्डुराग**] ở tận phía Nam. Hoàn Vương có thể được người Trung Quốc nhìn nhận là thay thế cái tên Lâm Ấp. Tuy nhiên, mục đích chính trong trường hợp ở đây là để thể hiện rằng Lâm Ấp không phải là Champa và vì vậy mà cũng không phải là Hoàn Vương nếu đó chỉ là một sự thay thế cho Lâm Ấp.

Toàn bộ số bi ký Champa thuộc giai đoạn này (có niên đại từ năm 774 – 854) đều ở phía Nam, (hầu hết) thuộc vùng Phan Rang hoặc ở đền Po Nagar tại Nha Trang. Mặc dù ba vị thủ lĩnh có tên được khẳng định là họ trị vì toàn bộ Champa (Pçthivīndravarman và Indravarman ở Phan Rang) hoặc Campa-pura (Harivarman tại Nha Trang), mà sự vắng bóng của toàn bộ các di tích thời này ở phía Bắc, đã cho thấy không cần phải tin rằng họ đã kiểm soát một cách hiệu quả đối với vùng lãnh thổ vượt xa khỏi Nha Trang, người ta cũng không còn cần phải tin vào khẳng định về các vị vua Angkor cho rằng họ đã cai trị cho đến tận Trung Quốc. Tất cả những gì mà chúng ta có thể chấp nhận về những khẳng định về những người cai trị Pāõóuraïga là họ coi khu vực của họ là một bộ phận của Champa, như đã thấy trong bi ký của Harivarman trong Campa-pura của ông ở Nha Trang, bằng cách giao phó Pāõóuraïga –pura (có lẽ là vùng Phan Rang) cho con trai ông là Vikrāntavarman [विक्रान्तवर्मन्*].Maspéro bắt đầu chương này, sau khi liệt kê tên các vị vua với một phần viết thêm bổ sung cho phần hư cấu lịch sử, trong thời kỳ thay đổi trung tâm quan trọng của Champa từ Mỹ Sơn về phía Nam. Ông viết rằng “về cái chết của Rudravarman”, vào khoảng năm 757, các thủ lĩnh đã trao vương miện cho một người của họ”. Tuy nhiên trước hết cái tên Rudravarman không hề thấy có trong bất cứ bi ký nào. Những bi ký cuối cùng ở Mỹ Sơn là thuộc về mọt vị vua có tên Vikrāntavarman (C77, C80, C97, C99 toàn bộ đều được định niêm đại chỉ trong thế kỷ śaka [शक***] thứ VII [AD 678-778], and C74/741. Bi ký đầu tiên ở phía Nam là C38/774, 784, thuộc về सत्यर्मन्* Satyavarman và một Vikrāntavarman – được cho là có phả hệ không phải là Vikrāntavarman [विक्रान्तवर्मन्*] Mỹ Sơn. Khoảng năm 749, người Trung Quốc xác định một Luduoluo or Luduo [रुद्रवर्मन्* Rudravarman, 庐陀罗跋摩* Lư Đà La Bạt Ma*], có thể có lý khi diễn giải là Rudra, trị vì Lâm Ấp, rõ ràng là người cuối cùng được họ ghi nhận 69. Niên đại 757 trong công trình của Maspéro chỉ là một phỏng đoán, rõ ràng dựa vào sự kiện là sau năm 758 thì người Trung Quốc không còn sử dụng cái tên Lâm Ấp nữa.

Vị Thủ lĩnh sau đó được trao vương miện và là người mà Maspéro cho là có nguồn gốc từ phương Bắc, là Pçthivīndravarman [प्रीतिइन्द्रवर्मन्*] cái tên của một vị tổ tiên mà các bi ký Pāõóuraïga lấy làm mở đầu phả hệ của họ. Maspéro đã viết rằng “đó có lẽ [sic] sau cái chết của [रुद्रवर्मन्* Rudravarman] khiến cho [प्रीतिइन्द्रवर्मन्*] Pçthivīndravarman chuyển hoàng tộc về phương Nam. Thủ lĩnh mới, Maspéro tin rằng “có lẽ [sic] thuộc về gia đình thái tử [पाण्डुराग*] Pāõóuraïga, “thị tộc Cau”, và ông tiếp tục sống ở phương Nam” 70. Tất nhiên không có ghi chép gì về việc [प्रीतिइन्द्रवर्मन्*] Pçthivīndravarman thuộc thị tộc Cau, cũng không có bất cứ dẫn chiếu nào về các thị tộc như vậy trong giai đoạn đó; và trước đó cũng không hề có thông tin gì về một “gia đình thái tử Pāõóuraïga” cả. Toàn bộ văn bản tưởng tượng của Maspéro theo giả định của ông là có một sự thống nhất của Lâm Ấp và Champa cho đến tận Phan Rang; vì vậy mà người kế vị của vị vua Lâm Ấp cuối cùng được người Trung Quốc ghi lại phải bao gồm cả quyền lực ở phương Bắc; và đó phải là quê gốc của người kế vị đó [प्रीतिइन्द्रवर्मन्*]Pçthivīndravarman, được ghi ở đó là bác (Bergaigne) hoặc cha (Maspéro) của vị vua thứ hai đã để lại một bi ký, đó là [इन्द्रवर्मन्*] Indravarman.

Maspéro tiếp tục về vị thế của [प्रीतिइन्द्रवर्मन्*] Pçthivīndravarman, bằng một lối biện minh kỳ dị giả định rằng ông không thừa kế ngai vàng, nhưng lại được cácthủ lĩnh ghi danh – bằng cách trích dẫn bi ký triều đại đầu tiên sau triều đại Đồng Dương được định niên đại là năm 875. Tuy nhiên ở đây có thể ông đã bỏ qua một giải thích của Finot. Bi ký này là để vinh danh một [इन्द्रवर्मन्*] Indravarman khác muộn hơn một thế kỷ, nhưng ở một chỗ đã quy cho ông là [प्रीतिइन्द्रवर्मन्*]Pçthivīndravarman, hệt như một [इन्द्रवर्मन्*] Indravarman khác nữa được ghi tên ở một nơi là राजइन्द्रवर्मन्*] Rājendravarman, Rāja-Indravarman 71.

Vấn đề này cần phải được xử lý tỷ mỷ. Bi ký C66 này – “tấm bia đầu tiên của Đồng Dương” theo Finot được vua [इन्द्रवर्मन्*] Indravarman dựng lên để tự vinh danh bản thân và vinh danh tổ tiên ông. Giống như các hồ sơ về triều đại này nói chung và các di tích kiến trúc của di chỉ, nó cho thấy một nghi lễ cúng dường một loại Phật giáo Đại thừa, không giống với các hồ sơ của Mỹ Sơn sớm hoặc Pāõóuraïga. Cũng có một bản kê các tổ tiên bắt đầu với Bhrigu, khác với truyền thống của các tiền bối và tối thiểu có hại vị hoàn toàn là huyền thoại là Parameśvara (Śiva) và उरोज* Uroja (bầu vú), sau đó là धर्मराज* Dharmarāja, रुद्रवर्मन्* Rudravarman,भद्रार्मन्* Bhadravarman (con của Rudravarman) và इन्द्रवर्मन्* Indravarman (con của Bhadravarman). Finot nhận xét rằng cái tên उरोज* Uroja mặc dù là Phạn ngữ, nhưng lại xa lạ đối với huyền thoại Champa và không được biết ở Ấn Độ, cònधर्मराज* Dharmarāja thì lại có vẻ kỳ cục đối với tên riêng của một vua Champa. Ông cho rằng cả hai đều là hư cấu và triều đại इन्द्रवर्मन्* Indravarman chỉ bắt đầu với người cháu của ông là रुद्रवर्मन्* Rudravarman. Chắc chắn उरोज* Uroja là huyền thoại, nhưng धर्मराज* Dharmarāja thì lại không hề xa lạ trong một chính thể tôn sùng Đạo Phật.

Dù là một Phật tử, nhưng इन्द्रवर्मन्* Indravarman lại không tán dương लिङ्गlingam truyền thống ở Mỹ Sơn của Śaübhubhadreśvara. Finot ngạc nhiên là ông đã không nhắc lại cái “tích truyện thực” của ngôi đền đó và thay vào đó bằng một dòng dõi huyền thoại mới, và vì vậy mà ông đã mô tả इन्द्रवर्मन्* Indravarman là một “kẻ tiếm quyền”. Đó là vì Finot, giống như Maspéro sau này, cho rằng một nước Champa duy nhất thống nhất từ Lâm Ấp trở đi, cho nên các vị vua nào không gắn bó với các nhà cai trị trước đó sẽ phải bị mất ngai vàng. Cái mà chúng ta thấy trong bi ký C66 là một huyền thoại mới của một gia đình gán cho một vị trí đã trở thành truyền thống. Nếu chúng ta thay vì chấp nhận rằng Champa không bao giờ là một chính thể thống nhất nên không có vấn đề gì với các thủ lĩnh ở Đồng Dương – mà tôn giáo và các huyền thoại tiền sử của họ khác nhau – trở nên quan trọng tách biệt khỏi các vị vua khác ở phương Nam. Không cần phải tiếp tục với ý tưởng của Finot cho rằng “ở đây có lẽ chúng ta thấy lại sự giao động của một kẻ tiếm ngôi khi tuyên bố cấm các công trình của một triều đại mà ông ta đã tiếm ngôi” (ở đây muốn nói đến triều đại Mỹ Sơn sớm), hoặc ông ngạc nhiên khi thấy rằng इन्द्रवर्मन्* Indravarman “đề cập đến tên của प्रीतिइन्द्रवर्मन्* Pçthivīndravarman ở đây như là thuộc về इन्द्रवर्मन्* Indravarman của Đồng Dương vào khoảng năm 875, chứ không phải là प्रीतिइन्द्रवर्मन्* Pçthivīndravarman của पाण्डुराग** Pāõóuraïga.

Quay trở lại với vấn đề của पाण्डुराग** Pāõóuraïga, Maspéro rõ ràng đã dấn sâu vào việc hư cấu lịch sử trong việc đồng nhất Hoàn Vương với पाण्डुराग** Pāõóuraïga và trong việc cắt dán các báo cáo về Hoàn Vương của Trung Quốc với các bi ký Champa xa về phía Nam (Phan Rang và Nha Trang). “Việc giành giật quyền lực vừa mới xảy ra”, ông bắt đầu, हरिवर्मन्* Harivarman (người kế vị của Indravarman theo các bi ký) năm 803 đã xâm lấn các châu Hoan, Ái hiện nay là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Đó là vì các nguồn sử liệu Trung Quốc ghi rằng Hoàn Vương đã tấn công, nhưng lại không đề cập đến bất kỳ cái tên người trị vì nào. Thực sự thì bi ký Phạn ngữ của हरिवर्मन्* Harivarman nói rằng ông “đã thiêu người Trung Quốc”, nhưng trong bối cảnh đó, lời ấy phải được coi là phép ngoa dụ như đã thấy trong các tuyên bố cường điệu của các vị vua Angkor về việc mở rộng biên giới và các quốc gia thần thuộc của họ (trong một bi ký của Jayavarman VII có cả Việt Nam và Java). Các khả năng cung cấp hậu cần trong thời gian đó có lẽ đều không cho phép Pāõóuraïga mở cuộc tấn công vào châu Hoan, châu Ái, trừ khi đó là một cuộc thám hiểm bằng đường biển. Bên cạnh vấn đề về khoảng cách không gian, Pāõóuraïga còn tách biệt khỏi các tỉnh đó bởi ba rào cản vật lý dọc theo đường biển Việt Nam là Mũi Đại Lãnh; Ðèo Hải Vân bắc Đà Nẵng; và Ðèo Ngang giữa Quảng Bình và Hà Tĩnh. Tuy nhiên các sử liệu Trung Quốc về các cuộc xâm lấn của Hoàn Vương đều được Maspéro trích dẫn đều ngụ ý là các cuộc tấn công bằng đường bộ 73.

Vậy thì sau đó chúng ta có thể nói gì về Pāõóuraïga thế kỷ VIII – IX dựa trên cơ sở các bi ký của nó? Rất ít, ngoại trừ một danh mục những người trị vì, và sự nổi lên của một tổ tiên dòng dõi huyền thoại mới विचित्रसागर* Vicitrasagara. Boisselier nhận xét rằng các bi ký Phan Rang của giới quan lại, trong khi các bi ký Pô Nagar là thuộc Hoàng tộc 74. Điều này có vẻ không chính xác. Các bi ký C38/774, 784 thực sự là của Hoàng tộc, còn các bi ký C25/799, C24/801 cũng vậy, còn bi ký C14/854 thì thuộc vùng Phan Rang. Các bi ký đặc biệt quan trọng đối với một quan chức – C19/ thế kỷ VII saka*** (Phan Rang), C37/813 (Pô Nagar), C31/817 (Pô Nagar) – liên quan đến các chiến công của một chiến binh nổi tiếng, सेनापति* Senāpati Pār (Tướng Pār*), đã có nhiều trận thắng quân Cambodia, nhưng về thể thức thì đó cũng là các bi ký Hoàng tộc.

Tên các thần, các vị vua và các tổ tiên dòng dõi huyền thoại cho thấy rõ ràng là Pāõóuraïga không thể hiện một cuộc di cư của Hoàng tộc từ Bắc vào Nam. Các hồ sơ cho thấy sự xuất hiện của một giới tinh hoa địa phương – có thể, như Southworth đã mô tả, vì sự sụp đổ của thương mại đời sơ Đường và việc thụt lùi của Quảng Châu vào giữa thế kỷ VII cũng đã phá hủy địa vị thống trị thương mại của hệ thống lưu vực Thu Bồn, và khi thương mại Nam Trung Quốc được chuyển giao cho hệ thống cảng châu thổ sông Hồng vào cuối thế kỷ VIII, thì đã xuất hiện một mô thức thương mại hoàn toàn mới…[Có một] sự chuyển đổi chủ yếu trong sự thay thế của sự phồn thịnh thương mại về phía nam Trung Bộ Việt Nam, đặc biệt là đến các cảng Nha Trang và Phan Rang, trên tuyến đường biển từ Java đến bắc Việt Nam”…[và] các quốc gia độc lập Kauñhāra và Pāõóuraïga…ở đây đã trở nên hưng thịnh vào cuối thế kỷ thứ VIII, đầu thế kỷ IX 75.

Ghi chú của người dịch: Các từ có đánh dấu sao [*,**,***] là do tôi, Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn, tiếng Hán và tiếng Việt để tiện cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và xác định nghĩa của từ mà thôi.

** पाण्डुराग panduraïga = Artemesia Indica 艾子 = ngải tử = rau ngải; sắc trắng, màu bạc; xanh mướt.

*** शक lịch Saka bắt đầu bằng năm 0 vào năm 78 SCN, năm nhuận được tính bằng cách thêm 78 vào năm Saka, nếu kết quả là một năm nhuận theo Dương lịch thì năm Saka cũng là một năm nhuận.

TT

Tháng Saka

Độ dài

Ngày tháng

bắt đầu

Ngày tháng

Dương lịch

1चैत्र Caitra30/3122/322/3-20/4
2वैशाख Vaishakha3121/421/4-21/5
3ज्येष्ठामूल Jyaishthamula3122/522/5-22/6
4आषाढक Āshādhaka3122/622/6-22/7
5श्रावण Shrāvana3123/723/7-22/8
6भाद्रपद Bhādrapada3123/823/8-22/9
7आश्वयुज् Āshvayuj3023/923/9-22/10
8कार्त्तिक Kārtika3023/1023/10-21/11
9अग्रहायण Agrahayana3022/1122/11-21/12
10पौष Pausha3022/1222/12-20/1
11माघ Māgha3021/121/1 -19/2
12फाल्गुन Phālguna3020/220/2-21/3

Tài liệu dẫn

1. Georges Maspéro, Le Royaume de Champa (Paris: École Française d’Extrême-Orient reprint, 1988); ấn bản gốc là Paris and Brussels: Éds. G. Van Oest, 1928.
2. Tôi quyết định đọc vần này là Linyi. Cách viết ở Việt Nam ngày nay đã bỏ đi dấu gạch nối giữa hai từ tên địa danh. Trước đây nó được viết là Lin-I hoặc Lin-Yi, như trong Rolf Stein, Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa et ses liens avec la Chine, in Han-Hiue, Bulletin du Centre d’Études Sinologiques de Pékin, 2 (1947). [Lâm Ấp, định vị và đóng góp của nó cho quá trình hình thành Champa và các mối quan hệ của chúng với Trung Quốc]. Các địa danh và tên đền tháp Champa cũng được ghi theo cách đọc vần trong các văn liệu tiếng Việt hiện nay.
3. Louis Finot, nhìn lại Maspéro, Le Royaume de ChampaBulletin de l’École Française d’Extrême-Orient (henceforth BEFEO), 28 (1928): 285-92; in lại năm bản năm 1988 của Maspéro, Royaume de Champa; George Coedès, Histoire ancienne des états hindouisés d’Extrême-Orient (Hanoi: Imprimerie d’Extrême-Orient, 1944); Coedès, Les états hindouisés d’Indochine et d’Indonésie (Paris: Éditions E. de Boccard,1948); Coedès, Les états hindouisés d’Indochine et d’Indonésie, rev. edn (Paris: Éditions E. de Boccard, 1964); Coedès, The Indianized states of Southeast Asia, ed. Walter F. Vella, tr. Sue Brown Cowing (Honolulu: University of Hawaii, 1968); Graham Thurgood, From ancient Cham to modern dialects, two thousand years of language contact and change(Honolulu: University of Hawaii, 1999).
4. Đối với các sử gia và các bi ký học Champa trước đây nó được coi là có một một Champa duy nhất từ khi xuất hiện Lâm Ấp. Xem Étienne Aymonier, ‘Première étude sur les inscriptions tchames’, Journal Asiatique (henceforth JA),série 8, 17 (1891): 5-86; Louis Finot, Bia Śambhuvarman [शम्भुवर्मन्* Fan Fan-tche 范梵志* Phạm Phạm Chí] ở Mĩ Sơn – ‘Stèle de Śambhuvarman à Mi-so’n’,BEFEO, 3 (1903): 206-11; Louis Finot, ‘Notes d’épigraphie VI: Inscriptions de Quảng Nam’, BEFEO, 4 (1904): 83-115 (see p. 113); Finot, ‘Notes d’épigraphie XI: Les inscriptions de Mi-so’n’, BEFEO, 4 (1904): 897-977; Finot, ‘Les inscriptions du Musée de Hanoi’, BEFEO, 15 (1915): 1-19; Paul Pelliot, ‘Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du VIIIe siècle’, BEFEO, 4 (1904): 131-385; và các nguồn tư liệu dẫn trong ghi chú ở trên. Các nghiên cứu gần đây coi Champa là một liên chính thể có thể thấy trong Actes du séminaire sur le Campāorganisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987 (Paris: Centre d’Histoire et Civilisations de la Péninsule Indochinoise, 1988).
5. William Aelred Southworth, The origins of Campā in Central Vietnam, a preliminary review (Ph.D. diss., School of Oriental and African Studies, University of London, 2001), pp. 416-7. Bảng 3 cho thấy chuỗi kiến trúc do Philippe Stern đề xuất trong L’art du Champa (ancien Annamet son évolution (Paris: Adrien-Maisonneuve, 1942), và Bảng 4, đề xuất xem xét lại của Southworth. Ông đã bỏ qua mọi tham chiếu với Pô Nagar of Nha Trang, cho dù Bảng đề xuất của ông có tiêu đề là Chuỗi định vị kiến trúc Campa đến đầu thế kỷ 11 SCN, trong khoảng thời gian đó, sao lại có thể bỏ qua Pô Nagar được.
6. Ibid., dẫn công trình trước đây của Claeys và Glover.
7. Đây là trường hợp bi ký C61 được trích dẫn, như trong Édouard Huber, ‘L’épigraphie de la dynastie de Đồng Dương’, BEFEO, 11 (1911) 282; Finot, ‘Inscriptions du Musée’, p. 11; Southworth, ‘Origins of Campā’, pp. 149, 151. For Chánh Lộ see Jean Boisselier, La statuaire du Champa (Paris: Publications de l’École Française d’Extrême-Orient, 1963, p. 214.
8. Charles Higham, The archaeology of mainland Southeast Asia (Cambridge: Cambridge University Press,1989), pp. 304-5; Ngô Văn Doanh, Chămpa ancient towers: Reality & legend (Hanoi: Institute for South-East Asian Studies, 2002), pp. 281-92.
9. Boisselier, Statuaire du Champa, pp. 118, 101, 133-9, 141, 147-8, 276.
10. Examples are L’Association Française des Amis de l’Orient, Le Musée de sculpture Caü de Đà Nẵng (Paris: Éditions de l’AFAO, 1997), p. 142, no. 121, from Hà Trung (Mỹ Sơn style); p. 144, no. 124, from Đại An (Mỹ Sơn style); and p. 175, no. 192, from Mỹ Đức (Đồng Dương style).
11. Stern, Art du Champa, p. 70, mặc dù không khẳng định sử dụng bất cứ bi ký nào trong việc định niên đại các công trình tưởng niệm thì việc Damrei Krap được xác định niên đại đầu thế kỷ IX, khoảng 802, trên cơ sở tích truyện Jayavarman II trong bi ký Sdok Kak Thom, Cambodia (AD 1052), nhưng với niên đại 802 được qui cho Jayavarman là từ các bi ký sau này. Đối với Mỹ Sơn A1, Stern chỉ rõ, tr. 94, rằng Parmentier “làm việc theo nguyên tắc các hình thái nghệ thuật hoàn hảo hơn thì cổ hơn”. Đó là định kiến nảy sinh ra cách định niên đại sai lầm cho Mỹ Sơn A-1, sau đó hình như đã được hỗ trợ bởi một bi ký sớm được phát hiện gần đó nhưng thực ra lại không có liên hệ gì quần thể khu tưởng niệm. Vì cách xử lý Tháp Mắm của Boisselier quá vụng về, có lẽ vì ông quá tòng phục theo cách xác định của Stern đối với phong cách Bình Định. Trước hết Boisselier gợi ý rằng phong cách đó xuất hiện sớm ngay sau khi thủ đô được cho là đã chuyển về Bình Định, khoảng năm 1000, theo Maspéro, nhưng sau đó khi thấy không ổn, ông đã vẫn tiếp tục vụng về đặt nó vào thế kỷ XII, chắc chắn không ăn nhập gì với quần thể tưởng niệm chính ở khu vực đó, các đền tháp xung quanh Quy Nhơn (Boisselier, Statuaire du Champa, pp. 223, 256-274, 308-9). Những điêu khắc loài quỷ được bảo tồn tốt tại Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng cho thấy ảnh hưởng Việt Nam/Trung Quốc [Boisselier, pp. 291-3] và phải muộn hơn, có thể thế kỷ XIV hoặc thậm chí XV. Như William Southworth, thông tin riêng ngày 10 tháng 11 năm 2004, đã lưy ý “Toàn bộ giai đoạn này và toàn bộ chuỗi lịch sử nghệ thuật và điêu khắc Bình Định cần phải được xem lại một cách chi tiết hơn … [và] bản thân di chỉ Tháp Mắm thực sự cũng có thể có niên đại từ cuối thế kỷ XIV đến thế kỷ XV”.
12. Coedès, Các nhà nước Ấn Độ hóa, Indianized states, p. 40; Jean Filliozat Bi ký được gọi là “Vỏ [sic]Cạnh”, ‘L’inscription dite de “Vỏ [sic]Cạnh”’, BEFEO, 55 (1969): 107-16; Claude Jacques, Ghi chú về phong cách “Vỏ [sic]Cạnh” Notes sur la stèle de “Vỏ [sic]Cạnh”’, pp. 117-24 cũng có cùng vấn đề; Michael Vickery, ‘Funan reviewed: Deconstructing the ancients’, BEFEO, 90-91 (2003-4): 101-43; và thảo luận của Southworth, ‘Origins of Campā’, ghi chú ở dưới.
13. Ibid., pp. 204-5.
14. Bi ký Chăm sớm nhất này là C174, mà Maspéro vẫn chưa biết và Anne-Valérie Schweyer đã bỏ qua trong Niên đại bi ký Champa đã công bố – Chronologie des inscriptions publiées de Campā, Études d’épigraphie cam-1,BEFEO, 86 (1999): 321-44. Xem George Coedès Bi ký Chăm ngữ cổ nhất ‘La plus ancienne inscription en langue chame’, in Eastern and Indian Studies in honour of F. W. Thomas, C. I. E. (Bombay: New Indian Antiquary Extra Series I, No. 48), pp. 39-52..
15. Southworth, Các cội nguồn Champa ‘Origins of Campā’, 241.
16. Anne-Valérie Schweyer, Triều vương Indrapura Quảng Nam, Việt Nam – Le dynastie d’Indrapura (Quảng Nam, Viet Nam)’, Southeast Asian Archaeology 1998: Proceedings of the 7International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, ed. Wibke Lobo and Stefanie Reimann (Hull: University of Hull Centre for South to East Asian Studies, 1998), pp. 205-17; Schweyer, Niên đại các bi ký – Chronologie des inscriptions. Schweyer – Nghề làm đồ bạc thời triều vương Indrapura Quảng Nam, Việt Nam – La vaisselle en argent de la dynastie d’Indrapura (Quảng Nam, Việt Nam), Études d’épigraphie cam – II’, BEFEO, 86 (1991): 345-55 cho rằng khu vực có các bi ký là thuộc quyền kiểm soát cảu triều vương này. William Southworth cực kỳ phản đối việc sử dụng Indrapura ngoài di chỉ Đồng Dương, và rõ ràng ông không chấp nhận quan điểm của Schweyer về một triều đại; xem Southworth Ghi chú về địa chính trị Champa ở miền trung Việt Nam trong các thế kỷ 8-9 SCN – Notes on the political geography of Campā in central Vietnam during thelate 8and early 9centuries AD’ trong Lobo and Reimann ed., Southeast Asian Archaeology 1998, pp. 237-44.
17. Aymonier, ‘Première étude’; Finot, các bài viết dẫn trong chú thích 4; Abel Bergaigne, Vương quốc Champa cổ ở Đông Dương, theo các bi ký – L’ancien royaume de Campā dans l’Indochine, d’après les inscriptions’, in lại từ Journal Asiatique (Paris: Imprimerie Nationale, 1888); Bergaigne, Bi ký Phạn ngữ Champa, Bi ký Phạn ngữ Cambodge – Inscriptions sanscrites de Campā, Inscriptions sanscrites du Cambodge (Paris: Imprimerie Nationale, 1893); Huber, Nghiên cứu văn bia Vương triều ‘Épigraphie de la dynastie’.
18. Schweyer, như lưu ý ở trên, đã bỏ qua bi ký Chăm ngữ sớm nhất, C174 from Ðông Yên Châu, do Coedès công bố trong ‘Plus ancienne inscription’. Bi ký này cũng bị quên trong danh mục Nghiên cứu văn bia xứ Chăm – Études épigraphiques sur le pays cham, ed. Claude Jacques (Paris: École Française d’Extrême-Orient, 1995). Schweyer cũng đã chuẩn bị một số bản dịch mới về các bi ký Chăm Pô Nagar, Nha Trang, sẽ in trong Aséanie, 14 (2004): 109-40 và 15 (2005), sắp tới. Các đoạn dịch được dẫn ở đây chính là ‘Po Nagar’. Xin chân thành cảm ơn cô vì đã cung cấp các đoạn dịch đó cho tôi.
19. Đây là danh mục trong công trình của George Coedès và Henri Parmentier, Danh mục tổng hợp về bi ký và công trình đền tháp Champa và Cambodge –Listes générales des inscriptions et des monuments du Champa et du Cambodge(Hanoi, Ecole Française d’Extrême-Orient, 1923).
Bibliography
L’Association française des amis de l’orient (AFAO), 1997 Le Musée de sculpture Ca∝ de Đà Nẵng, Editions de l’AFAO, Paris.
Aymonier, Étienne 1880 “Chronique des anciens rois du Cambodge”.
Excursions et Reconnaissances, IV, 2 (1880), pp. 149-80.
1891 “Première étude sur les inscriptions tchames”, Journal Asiatique, janvier-février 1981, pp. 5-86.
1901, 1904 Le Cambodge. Vol I: Le royaume actuel. Paris: Ernest Leroux. Editeur, 1900. Vol. II: Les provinces siamoises. Paris: Ernest Leroux, Editeur, 1901. Vol III:Le Groupe d’Angkor et l’histoire. Paris: Ernest Leroux, Editeur, 1904.
1911 “L’inscription came de Po Sah”, Bulletin de la Commission Archéologique de l’Indochne, pp. 13-19.
Aymonier, Étienne et Antoine Cabaton 1906 Dictionnaire Čam-Français, Paris, Imprimerie Nationale, Ernest Leroux, Éditeur.
Bellwood, Peter 1985 Prehistory of the Indo-Malaysian Archpelago, Orlando, Academic Press.
1992 “Southeast Asia Before History”, The Cambridge History of Southeast AsiaVolume I, pp. 53-136.
1993 “Cultural and Biological Differentiation in Peninsular Malaysia: The Last 10,000 Years”, Asian Perspectives Vol. 32, No. 2 (Fall 1993), pp. 37-59.
Bergaigne, Abel 1888 “L’Ancien royaume de Campā dans l’Indochine, d’après les inscriptions”, Extrait du Journal Asiatique, Paris, Imprimerie Nationale.
1893 Inscriptions sanscrites de CampaInscriptions sanscrites du Cambodge. Notices et extraits des manuscrits de la Bibliothèque Nationale, Tome 27, (1ere partie), 2e fascicule, Paris, Imprimerie Nationale.
Blust, Robert A. 1988 “The Austronesian Homeland: A Linguistic Perspective”,Asian Perspectives 26, pp. 45-67.
1992 “The Austronesian Settlement of Mainland Southeast Asia”, in Papers From the Second Annual Meeting of the southeast Asian Linguistics Society 1992, Edited by Karen L. Adams and Thomas John Hudak Arizona Sate University, Program for Southeast Asian Studies, Tempe,
Arizona, 1994.
Coedès, George 1918 “Le royaume de Çrī Vijaya”, BEFEO 18, 6 (1918), pp. 1-28
1928 “La date du Bayon”, BEFEO 28, pp. 81-103
1929 “Nouvelles données chronologiques et généalogiques sur la dynastie de Mahīdharapura”, BEFEO 29, pp. 297-330, including the inscription of Banteay Chhmar, pp. 309-315.
1932 “Quelques sugestions sur la méthode à suivre pour interpreter les bas-reliefs de Bantãy Chmàr et de la galérie extérieure du Bàyon”, BEFEO 32, pp. 71-81.
1939 “La plus ancienne inscription en langue chame”, in Eastern and Indian Studies in honour of F.W. Thomas, C.I.E., pp. 46, ff.
1942. Inscriptions du Cambodge Vol. 2. École Française d’Extrême-Orient. Collection de textes et documents sur l’Indochine III. Hanoi: Imprimerie d’Extrême-Orient.
1944 Histoire ancienne des états hindouisés d’extrême-orient. Hanoi. Imprimerie d’extrême-orient.
1964a Les états hindouisés d’Indochine et d’Indonésie. Nouvelle édition revue et mise à jour. Paris: Éditions E. de Boccard.
1964b Inscriptions du Cambodge Vol. 7. École Française d’Extrême-Orient. Collection de textes et documents sur l’Indochine III. Paris: École Française d’Extrême-Orient.
1966 Inscriptions du Cambodge Vol. 8. Paris, École Française d’Extrême-Orient.
1968 The Indianized States of Southeast Asia, edited by Walter F. Vella, translated by Sue Brown Cowing. Honolulu, University of Hawaii Press.
Coedès, George et Pierre Dupont 1943-46 “Les stèles de Sdòk Kak Thom, Phnom Sandak et Prá.h Vihãr.” BEFEO 43:56-154.
Coedès, George et Henri Parmentier 1923 Listes générales des inscriptions et des monuments du Champa et du Cambodge, Hanoi, Ecole Française d’Extrême-Orient, 1923.
Copenhagen 1988 Actes du séminaire sur le Campā, organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, Paris, Travaux du centre d’histoire et civilisations de la péninsule indochinoise. 1988
Damais, L[ouis]-C[harles] 1957 Review of Prof. Dr. Poerbatjaraka. Riwajat Indonesia, djilid 1 (Histoire de l’Indonésie, vol. 1). Djakarta. Jajasan Pembangunan. Bulletin de L’École Française d’Extrême- Orient 48 (1957), pt. 2, pp. 607-49.
Demiéville, Paul 1951 “R.A. Stein, ‘Le Lin-yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa et ses liens avec la Chine’”, T’oung Pao 40:336-351.
Diffloth, Gérard 1992 “Vietnamese as a Mon-Khmer Language”, in Papers from the 1st Annual Meeting of the South to East Asisan Linguistivcs Society. M. Ratliff and E. Schiller, eds., Tucson, Arizona State University Press, pp. 125-139.
1995 Paper presented in Hanoi, cited in Nguyễn Hữu Hoành, Tiêng Katu, 21-22, 219.
ÉÉPC 1995 Études Épigraphiques sur le Pays Cham, réunies par Claude Jacques. Paris: Presses de l’École Française d’Extrême- Orient, Réimpression No 7.
Filliozat, Jean 1969 ‘L’inscription dite de ‘Vỏ [sic! Võ]Cạnh’”, Bulletin de L’ÉcoleFrançaise d’Extrême-Orient 55 (1969), pp. 107-116.
Finot, Louis 1902 “Deux nouvelles inscriptions de Bhadravarman Ier”, Bulletin de L’École Française d’Extrême-Orient II, pp. 185-191.
1903 “Stèle de Śambhuvarman à Mi-so’n”, Bulletin de L’École Françaised’Extrême-Orient III (1903), pp. 206-211
1904a “Notes d’épigraphie VI: Inscriptions de Quảng Nam”, Bulletin de L’ÉcoleFrançaise d’Extrême-Orient IV (1904), pp. 83-115
1904b “Notes d’épigraphie XI: Les inscriptions de Mi-so’n”, Bulletin de L’ÉcoleFrançaise d’Extrême-Orient IV (1904), pp. 897-977
1915 “Les inscriptions du Musée de Hanoi, BEFEO XV (1915), pp. 1-19
1915 b ‘Les inscriptions du Jaya Parameśvaravarman I roi du Champa’, Bulletin de L’École Française d’Extrême-Orient, 15/2, pp. 39-43.
1915c ‘Errata et Addenda’, Bulletin de L’École Française d’Extrême-Orient, 15/2, pp. 185-192.
1928 Review of Maspéro, Le royaume de Champa, BEFEO XXVIII, pp. 285-292. Reprinted in Maspéro 1928.
Glover, Ian 1997 “The Excavations of J.-Y. Claeys at Trà Kiệu , Central Vietnam, 1927- 28: from unpublished archives of the EFEO, Paris, and records in the possession of the Claeys family”, Journal of the Siam Society, Volume 85, Parts 1&2, pp. 173-186.
Groslier, Bernard Philippe 1973 Inscriptions du Bayon, in Jacques Dumarçay, Le Bayon histoire
architecturale du temple, Publications de l’Ecole Française d’Extrême-Orient, Mémoires Archéologiques III-2, Paris, l’Ecole Française d’Extrême-Orient, 1973, pp. 83-306.
Hall, Kenneth R. 1985 Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press, 1985
Huber, Edouard 1905 “Le clan de l’aréquier”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient V,1905, pp. 170-5.
1911 “L’épigraphie de la dynastie de Đồng Dương”, BEFEO 11, pp. 268-311.
Jacques, Claude 1969 “Notes sur la stèle de ‘Vỏ [sic! Võ]Cạnh’”, Bulletin de L’École Française d’Extrême-Orient 55 (1969), pp. 117-124.
1995 Études Épigraphiques sur le Pays Cham, réunies par Claude Jacques. Paris: Presses de l’École Française d’Extrême-Orient, Réimpression No 7.
1996 “Le Bayon et l’épigraphie”, in First Symposium on the Bayon, Final Report – Volume I, pp. 78-86.
Lafont, Pierre-Bernard 1979 “Études Cam III. Pour une réhabilitation des chroniques rédigées en Ca∝ moderne”, BEFEO 1979, pp. 105-111.
1988 “Avant Propos”, Actes du séminaire sur le Campā, organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, Paris, Travaux du centre d’histoire et civilisations de la péninsule Li Tana
1998 Nguyễn CochinchinaSouthern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, Ithaca: Cornell Southeast Asia Program Publications.
Pierre-Yves Manguin 1979 “L’Introduction de l’Islam au Campā”, BEFEO, LXVI, 1979, pp. 255-28
Maspéro, Georges 1928 [1988] Le royaume de Champa, réimpression de l’École Française d’Extrême-Orient, Paris.
Moussay, Gerard 1971 Dictionnaire Căm-Vietnamien-Français, Phanrang, Centre Culturel Căm.
Népote, Jacques 1993 (1-2) “Champa, propositions pour une histoire de temps long”, Péninsule, Nouvelle série, 26-27.
Pelliot, Paul 1903 “Le Fou-Nan”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient III, 1903, Hanoi, pp. 248-303.
1904 “Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du VIIIe siècle”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient IV, Hanoi, pp. 131-385.
Po Dharma 1987 (I-II) Le Pa∂urajga (Campa) 1802-1835, tomes I-II. Paris, Publications de l’École Française d’Extrême-Orient.
1988 “Etat des dernières recherches sur la date de l’absorption du Campā par le Vietnam”, Actes du séminaire sur le Campā, organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987, Paris,
Travaux du centre d’histoire et civilisations de la péninsule indochinoise, pp. 58-69.
1999 Quatre lexiques malais-can anciens rédigés au Campā, Presses de l’École française d’Extrême-Orient, Paris.
Reid, Anthony 1999 Changing the Shape of Early Modern Southeast Asia, Chiang Mai, Silkworm Books 1999
Roveda, Vittorio 2000 Khmer Mythology, Secrets of Angkor. Bangkok, River Books.
Schweyer, Anne-Valérie 1998 “Le dynastie d’Indrapura (Quảng Nam, Viet Nam)”,Southeast Asian Archaeology 1998, Proceedings of the 7th International Conference of the Europezan Association of Southeast Asian Archaeologists, Berlin, 31 August – 4 September 1998, Wibke Lobo and Stefanie Reimann Editors, Centre for South to East Asian Studies, University of Hull,
Special Issue & Ethnologisches Museum, Staatliche Museen zu Berlin, Stiftung Preussischer Kulturbesitz, pp. 205-217.
1999a “Chronologie des inscriptions publiées de Campa, Études d’épigraphie cam-1”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient 86, pp. 321-344.
1999b “La vaisselle en argent de la dynastie d’Indrapura (Quảng Nam, Việt Nam, Études d’épigraphie cam – II”, Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient 86, pp. 345-355.
2004 ‘Po Nagar de Nha Trang’, Aséanie, 14, pp. 109-40.
2005 ‘Po Nagar de Nha Trang’, deuxième partieAséanie, 15, forthcoming.
Southworth, William Aelred 2001 “The Origins of Campā in Central Vietnam, A Preliminary Review”, Ph.D. thesis, Archaeology, SOAS, University of London, 2001
Stern, Philippe 1927 Le Bayon d’Angkor Thom et l’évolution de l’art khmer. Paris: Annales du Musée Guimet, Bibliothèque de vulgarisation, no. 47. Librairie orientale Paul Geuthner.
1942 Philippe Stern, L’Art du Champa (Ancien Annam) et son Evolution, Toulouse.
Stein, Rolf 1947 Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation duChampa et ses liens avec la Chine. In Han-Hiue, Bulletin du
Taylor, Keith W. 1983 The Birth of Vietnam, Berkeley, University of California Press.
1998 “Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, Journal of Asian Studies, vol. 57, no. 4, 1998, pp. 949–978.
Thurgood, Graham 1999 From Ancient Cham to Modern Dialects, Two Thousand Years of Language Contact and Change. Honolulu, University of Hawaii.
Vickery, Michael 1998 Society, Economics and Politics in Pre-Angkor Cambodia: The 7th to eighth CenturiesTokyo.The Centre for East Asian Cultural Studies for Unesco, The Toyo Bunko.
2003 “Funan Reviewed: Deconstructing the Ancients”, publication pending inBEFEO.
2004a “Two Historical Records of the Kingdom of Vientiane”, in Christopher E. Goscha and Sören Ivarsson (eds.), Contesting Visions of the Lao Past Lao Historiography at the Crossroads, Richmond: Curzon Press.
2004b Cambodia and its Neighbors in the 15thCentury, Asia Research Institute Working Paper Series No. 27, Singapore. http://www.ari.nus.edu.sg/pub/wps.htm
Wade, Geoff 2005 Champa in the Song hui-yao: A Draft Translation, Asia Research Institute Online Working Paper Series, No. 53, Singapore.
Vietnamese histories.
Cm = Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục
Tt = Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
Vsl = Việt Sử Lược
20. Ma Duanlin, Ethnographie des peuples étrangers à la Chine, tr. Léon Hervey de Saint-Denys (Farnborough: Gregg, 1972 reprint); the original edition was published in 1876 by H. Georg in Geneva.
21. See Geoff Wade’s chapter in Lockhart and Tra (eds.), New Scholarship on Champa, 2006.
22.Ngô Sĩ Liên, Ðại Việt sử ký Toàn thư (henceforth Tt), tr. Hoàng Văn Lâu, ed. Hà Văn Tấn (Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 1993); Quốc sử quán Triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (henceforth Cm) (Hà Nội: NXB Giáo dục, 1998); Việt sử lược (henceforth Vsl), ed. Trần Quốc Vượng (Hà Nội: NXB Văn Sử Địa, 1960).
23. Michael Vickery, ‘Cambodia and its neighbors in the fifteenth century’, National University of Singapore Asia Research Institute Working Paper Series No. 27, http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps04_027.pdf, ‘Appendix to note 15’, pp. 49-52.
24. Jacques Népote, ‘Champa, propositions pour une histoire de temps long’,Péninsulenouvelle série, 26 (1993): 3-54 and 27 (1993): 65-119. For the ‘Copenhagen papers’, see Actes du séminaire, notably Tâm Quach-Langlet, ‘Le cadre géographique de l’ancien Campā’, pp. 28-47, who treats Champa as a land-based economy and shows no awareness of its maritime background or activity.
25. Peter Bellwood, ‘Southeast Asia before history’, in The Cambridge history of Southeast Asia, ed. Nicholas Tarling, Vol. I, pp. 53-136; see also Bellwood, ‘Cultural and biological differentiation in Peninsular Malaysia: The last 10,000 years’, Asian Perspectives, 32, 2 (1993): 50, where he refers to the ‘differentiation of Malayo-Chamic [still in southeast Kalimantan] commencing in the third or fourth century BCE’; Robert Blust, ‘The Austronesian homeland: A linguistic perspective’, Asian Perspectives, 26 (1984-5): 45-67; Blust comments elsewhere that ‘probably during the last two or three centuries before the Christian era, the Chamic languages and Malay became established in mainland Southeast Asia along the coasts of the South China Sea’; Blust, ‘The Austronesian settlement of mainland Southeast Asia’, in Papers from the second annual meeting of the Southeast Asian Linguistics Society 1992, ed. Karen L. Adams and Thomas John Hudak (Tempe, AZ: Arizona Sate University Program for Southeast Asian Studies, 1994), p. 30. Graham Thurgood posits a Chamic arrival on the mainland about 2000 years ago (From ancient Cham, p. 5).
26. Peter Bellwood, Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago (Orlando: Academic Press, 1985); Bellwood, ‘Southeast Asia’; Higham, Archaeology of mainland Southeast Asia, pp. 230-97.
27. Bellwood, Prehistory, pp. 124, 275; Bellwood, ‘Cultural and biological’, p. 53. The ‘old idea’ is still repeated in some scholarly work, such as Népote, ‘Propositions’.
28. ‘Peninsular Malaysia is one of the few places in the Austronesian world (the other major ones being southern Viet Nam and western Melanesia) where Austronesian settlers found agriculturalists, in this case Austroasiatic speakers, in prior occupation’ (Bellwood, ‘Cultural and biological’, p. 51).
29.Stein, Lin-Yi, p. 221 gives definitions of Ancient and Archaic Chinese.
30. Ibid., p. 234, n. 223, citing Bergaigne, ‘Ancien royaume’ ; Paul Demiéville, ‘R.A. Stein, “Le Lin-yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa et ses liens avec la Chine”’, T’oung Pao, 40 (1951): 345, quoted in Southworth, ‘Origins of Campā’, p. 373.
31.Bernard Gay, ‘Vue nouvelle sur la composition ethnique du Campā’ in Actes du séminaire, pp. 49-57; Gay is also obsolete (p. 51) in his treatment of the Vat Luang Kau inscription as showing Champa expansion up to the Mekong near Vat Phu in the fifth century, and in his acceptance of old Cambodian legends without historical value. On Vat Luang Kau see Claude Jacques, ‘Notes sur l’inscription de la stèle de Vǎt Luong Kǎu’, JA, 250 (1962): 249-56 and the discussion in Michael Vickery, Society, economics and politics in Pre-Angkor Cambodia: The seventh to eighth centuries (Tokyo. Centre for East Asian Cultural Studies for Unesco, Toyo Bunko, 1998), pp. 73-4.
32.Gérard Diffloth, ‘The outward influence of Chamic into Mon-Khmer speaking areas’, Symposium on New Scholarship on Champa, Asia Research Institute, National University of Singapore, 5-6 August 2004 ; and personal communication.
33. Finot, review of Maspéro, p. 286; Gay, ‘Vue nouvelle’; Étienne Aymonier and Antoine Cabaton, Dictionnaire čam-français (Paris: Ernest Leroux, 1906), p. 116; Gérard Moussay, Dictionnaire cǎm-vietnamien-français (Phan Rang: Centre Culturel Cǎm, 1971), p. 39; Thurgood, From ancient Cham, pp. 2, 336; Po Dharma,Quatre lexiques malais-cam anciens rédigés au Campā (Paris: École Française d’Extrême-Orient, 1999).
34. Southworth, ‘Origins of Campā’; Stein, Lin-yi, pp. 317-8.
35. Vickery, Society, economics and politics.
36. Về Việt-Mường và Katu, xem Gérard Diffloth, ‘Vietnamese as a Mon-Khmer language’, in Papers from the first annual meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, ed. Martha Ratliff and Eric Schiller (Tempe, AZ , Arizona State University Press, 1992), pp. 125-39 và một bài của cùng tác giả trình bày tại Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, dẫn trong Nguyễn Hữu Hoành, Tiếng Katu cấu tạo từ (Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 1995), tr. 21-2, 219.
37. Vickery, Society, economics and politics; Vickery, ‘Funan reviewed’; Paul Pelliot, ‘Le Fou-Nan’, BEFEO, 3 (1903): 248-303, có cung cấp âm cổ.
38. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 54-55, 62, 72, 74, 61 respectively; Phạm Côn Sa Đạt có trong TtNgoại kỷ, 4:11b (v. 1, p. 175).
39. Có những bi ký khác thuộc thế kỷ VII không có niên đại theo năm, có kê têm một số trong bi ký C96 (Schweyer, ‘Chronologie des inscriptions’, p. 326).
40. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 245-6; Pelliot ‘Deux itinéraires’, p. 384, n. 3; trong trường hợp đặc biệt này họ cho rằng thuật ngữ Trung Quốc đã thể hiện một từ dịch chứ không phải là phiên âm của cái tên Chăm đó.
41. Southworth, ‘Origins of Campā’, pp. 335, 292-3, 291 respectively.
42. Ibid., pp. 303-4. Xem tóm tắt các sự kiện này và các nguồn trong Pelliot, ‘Deux itinéraires’, pp. 382-3, n. 9, trong đó các mối quan hệ gia đình thể hiện rõ ràng hơn trong Southworth.
43. Southworth, ‘Origins of Campā’, pp. 302-4. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 63-5 đã nhận thấy sự đồng nhất Địch Chân (‘Ti Tchen’) với Gaïgārāja, nhưng vì ông tin rằng Lâm Ấp và Champa là một nên không bàn luận gì đáng kể về việc này.
44. Southworth, ‘Origins of Campā’, p. 318. ịch
45. Ibid., p. 312.
46. Maspéro, Royaume de Champa, p. 81; Keith W. Taylor, The birth of Vietnam(Berkeley: University of California Press, 1983), pp. 136ff. Maspéro sử dụng chữ ‘Lý Bổn’, một cách đọc khác, vì một số vùng ở bắc Việt Nam kiêng âm “Bí” để tỏ lòng kính ngưỡng ông.
47. Southworth, ‘Origins of Campā’, p. 309, trong đó ông đã dịch nhầm Maspéro liên quan đến kết quả cuộc chiến giữa Rudravarman và Phạm Tu, khi viết rằng Rudravarman là thắng lợi và điều đó đánh dấu chiến thắng chung cuộc của Tây Đồ với Lâm Ấp. Trong khi đó Maspéro (Royaume de Champa, p. 81) viết: “Il[Rudravarman] y rencontre un général de Ly Bon, Phạm Tu, est défait et réintegre son royaume” (Ông chạm trán tướng của Lý Bổn, là Phạm Tu, bị đánh bại và lui về vương quốc của mình”. Còn Southworth (p. 309) thì lại dịch là: “Rudravarman …[đã] tấn công một trong những vị tướng của Lý Bôn có tên … Phạm Tu, đánh chiếm lãnh thổ của vị này và gộp vào Lâm Ấp”. Taylor, Birth of Vietnam, p. 138, đã ghi chú chính xác rằng “Quân đội Lâm Ấp đã bị đánh bại và phải rút lui”.
48. Cần phải nhấn mạnh rằng các thuật ngữ “Mon-Khmer”, “Vietic”, và “Việt-Mường” là các thuật ngữ của ngành ngôn ngữ và các nhà ngôn ngữ gộp vào đó toàn bộ nhóm ngôn ngữ Mon – Khmer. Điều đó có nghĩa là nếu cái tên “Việt” có nguồn gốc từ “Yue” của vùng Nam Trung Quốc cổ thì người “Mường” lại không phải là các tổ tiên ngôn ngữ học của Việt Nam ngày nay, các ngôn ngữ và phương ngữ của nó (ngoại trừ nhóm Tai ở Tây Bắc và vài nhóm nhỏ Tibeto-Burman và Kadai) có các nguồn gốc tại Nghệ An và các vùng xung quanh Lào. Không nghi ngờ gì nữa, nếu tiếp cận từ phương diện này thì tiền sử Việt Nam chắc chắn phải được xem xét lại.
49. Geoff Wade, bản dịch Song Huiyao Tống Hội yếu. Như Wade đề xuất, “các tên gọi chính thể sớm mà ngày nay gắn liền với Champa, chẳng hạn như Lâm Ấp và Hoàn Vương lại không được các trụ cột của SHYJG gắn với chính thể này của Chiêm Thành”. Cần không được quên rằng hiện nay việc gắn những cái tên Lâm Ấp và Hoàn Vương với các niên đại Champa chỉ mới có trong các nghiên cứu của giới học giả Châu Âu.
50. Stein, Linyi, pp. 234-5.
51. Nayan Chanda, Brother enemy (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1986), p. 49, quoting Paul Mus, Viêt-namsociologie d’une guerre (Paris: Éditions du Seuil, 1952), p. 17; Michael G. Cotter, ‘Towards a social history of the Vietnamese Southward Movement’, Journal of Southeast Asian History, 9, 1 (1968): 12–24.
52. Để có thêm thông tin về cuộc thảo luận mở rộng về vấn đề này và các vấn đề khác, chẳng hạn như thần chú, xem Michael Vickery, ‘Two historical records of the Kingdom of Vientiane’, in Contesting visions of the Lao past: Lao historiography at the crossroads, ed. Christopher E. Goscha and Søren Ivarsson (Richmond: Curzon Press, 2004), pp.3-35.
53. Li Tana, Nguyễn CochinchinaSouthern Vietnam in the seventeenth and eighteenth centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 1998), pp. 19, 21, 28; Keith W. Taylor, ‘Surface orientations in Vietnam: Beyond histories of nation and region’, Journal of Asian Studies, 57, 4 (1998): 951, 960.
54. Stein, Linyi, p. 72. Further critiques of Maspéro are found throughout Stein’s study, and, where relevant, will be noted below.
55. See Keith W. Taylor,‘The early kingdoms’, in Tarling ed., Cambridge History of Southeast Asia, p. 153 and Southworth, ‘Notes on the political geography’; the quotation on Nora Taylor’s argument is from a personal communication with her.
56. Louis Finot, ‘Deux nouvelles inscriptions de Bhadravarman Ier’, BEFEO, 2 (1902): 185-91.
57. Coedès’ reconstruction is in his ‘Note sur deux inscriptions du Champa’,BEFEO, 12, 8 (1908): 15-7.
58. The correspondence is improved by Finot’s redating of the inscription from fifth century to sixth century śaka; Finot, ‘Stèle de Śambhuvarman’, p. 207 and Finot, ‘Inscriptions du Musée’, p. 5.
59. For Inscription C81, see Jacques ed., Études épigraphiques, pp. 110-1, where it is numbered “VI’.
60. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 64-5.
61. Finot, ‘Stèle de Śambhuvarman’, pp. 206-11; Finot, ‘Notes d’épigraphie XI’, pp. 928-9.
62. Maspéro, Royaume de Champa, ch. IV
63. See ibid., p. 95, n. 1 for some of the sources. The literal translation of ‘Huanwang’ is from Geoff Wade, personal communication.
64. Pelliot, ‘Deux itinéraires’, pp. 184-6; Stein, Linyi, pp. 79-81. Pelliot, of course, did not know of the inscriptions which give importance to Pāõóuraïga (Nha Trang and Phan Rang) in the eighth century.
65. Về niên đại 809, xem Stein, Linyi, p. 234 and Pelliot, ‘Deux itinéraires’, p. 196. Chi tiết này thu hút sự chú ý của tôi nhờ Népote, ‘Champa, propositions’, part 2, p. 87. Cùng với các trích dẫn về “Chiêm Bà” thế kỷ VII của Huyền Trang và Nghĩa Tĩnh, Stein bổ sung thêm ‘Tôi đã thôi không cố giải thích cái tên quá độ nhưng chỉ tồn tại ngắn ngủi Hoàn Vương”.
66. Boisselier, Statuaire du Champa, pp. 61-2.
67. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 18, 43, 154.
68. Về bi ký này, xem Finot, ‘Notes d’épigraphie XI’, pp. 933-40; Jacques ed.,Études épigraphiques, pp. 115-22. Các trích dẫn này từ Édouard Huber, ‘Le clan de l’aréquier’, BEFEO, 5 (1905): 170-5; and Boisselier, Statuaire du Champa, pp. 61-2.
69. Maspéro, Royaume de Champa, p. 93 and note 3 and p. 246, table. Về các bi ký này, xem Bergaigne, ‘Ancien royaume’, pp. 242-60. Maspéro quy về Vikrāntavarman II và III.
70. Maspéro, Royaume de Champa, pp. 96-7 and note 7. Xem các thị tộc Cau và thị tộc Dừa ở trên.
71. Xem bi ký C25 trong Bergaigne, ‘Ancien royaume’, number XXII, A, ii: ‘Srīmān Rājendra(va)rmmā’, do Bergaigne dịch là ‘Vua Śrī Indravarman này’. Loại tên kép này được Schweyer thừa nhận là metri causa dùng làm chuẩn (‘Dynastie d’Indrapura’, p. 207).
72. For inscription C66 see Finot, ‘Notes d’épigraphie VI’, pp. 84-99.
73. Maspéro, Royaume de Champa, p. 105.
74. Boisselier, Statuaire du Champa, p. 62.

Bài viết của nhà nghiên cứu Michael Vickery

Người dịch: Hà Hữu Nga