Dân tộc Việt Nam quần tụ trên bán đảo Đông Dương trải qua nhiều ngàn năm với đầy đủ những yếu tố cơ hữu: nòi giống, ngôn ngữ, văn hoá… Địa bàn sinh sống là một hành lang thuận lợi của vùng Đông Nam Á, nơi có sự giao lưu qua lại của con người và sự sống trên địa cầu từ thời tiền sử, theo các chiều Nam-Bắc, Đông-Tây, đại dương và lục địa.

Sự cạnh tranh quyết liệt của các siêu cường hiện nay tập trung mọi phương tiện, mọi chiến pháp, nhằm chiếm đoạt khu vực giữ ưu thế thắng lợi đánh bại địch thủ. Sự sống còn của dân tộc Việt Nam và các dân tộc láng giềng đang đứng trước những thử thách vô cùng cam go.

Mới đây, một thanh niên Việt Nam thành công bước đầu trong sự nghiệp chính trị tại địa phương, có dịp xuất hiện rộng rãi trước công chúng, đã phát biểu “Tôi là người Việt Nam của Dân Tộc Việt Nam”. – “Tôi là người Việt Nam” là sự kiện đơn giản dễ nhìn thấy, nhưng phần tiếp theo “Dân Tộc Việt Nam” phức tạp hơn.

Tuổi thanh xuân của nam nữ Việt Nam dù bất cứ nơi đâu, đang hoà mình vươn lên trong xã hội, dành ra những khoảnh khắc nghĩ đến cội nguồn Dân Tộc, tương lai Dân Tộc, sẽ cảm nhận những rung động thiêng liêng cao quí, những ước mơ vị tha, vị quốc. Họ sẽ vượt qua những cám dỗ vị kỷ, tìm thấy ý nghĩa cuộc sống của một đời người, trong đó có Lẽ Sinh Tồn của Dân Tộc.

Từ trước đến nay đã có rất nhiều sử gia, các nhà khảo cổ học, nhân loại học, tiền sử học, tập trung nghiên cứu về Đông Á và Đông Nam Á. Các học giả dựa vào tài liệu đã có trước, những khám phá đương thời, đưa ra những lý thuyết thuộc các vấn đề liên quan, trong đó có Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam.

Sau đây là những phần trích dẫn tiêu biểu hoặc tóm tắt đại ý của một số tác phẩm nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam

1./ Việt Nam Sử Lược

Việt Nam Sử Lược được xem như là sách giáo khoa của học sinh trung học miền Nam Việt Nam trước 1975. Qua tác phẩm, cụ Trần Trọng Kim nêu lên những yếu tố căn bản :

‘‘Theo ý kiến những nhà nghiên cứu Pháp thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông Nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và nước Lào.

Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam miêu ở, sau có giống Hán tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu rồi dần dần xuống miền Nam. Người Tam miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ’’.

2./ Linh mục Lương Kim Định

Linh mục Lương Kim Định, một sử gia cũng là một triết gia. Sau nhiều năm tập trung nghiên cứu, giảng huấn, dựa trên những công trình của Vương Đằng Linh, Chu Cốc Thành, Eberhard và Eickstedt, giáo sư Lương kim Định đã hòan thành hai mươi ba tác phẩm, tạo nên hai bộ sách Việt Nho và Việt Triết, khai mở một nền tảng về Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam.

Thuyết của Linh mục Kim Định được tóm tắt như sau: Bách Việt cũng gọi là Viêm Việt gồm có ba nhóm là Âu Việt (Miến Điện, Thái, và Lào), Miêu Việt (Mèo, Mán), và Lạc Việt (Việt Nam và Mường). Giống Bách Việt từ phương Tây tiến vào lục địa Đông Á dài theo sông Dương Tử, mở rộng lên phương Bắc gần đến sông Hoàng Hà và lan rộng xuống phía Nam. Định cư tại địa bàn nầy, giống Bách Việt đã tiến vào thời đại nông nghiệp, xã hội được tổ chức nề nếp và ổn định. Họ sinh sống với một trình độ văn minh, văn hóa khá cao do chính họ tạo ra, đó là nền văn hóa Việt Nho.

Tiếp theo, một giống dân du mục khác cũng đến từ phương Tây và lấn chiếm khu vực sinh tồn của giống Bách Việt. Sau khi cưỡng đoạt đất đai của người Việt, lớp người chinh phục đến sau – người Hoa – sát nhập tất cả những gía trị của Việt Nho làm thành văn hóa của Trung Hoa.

3./ Sử gia Phạm Văn Sơn và Việt Sử Toàn Thư.

Sử gia Phạm văn Sơn đã đưa ra nhiều chi tiết trích dẫn từ Cổ thư Trung Hoa đến các tài liệu khoa học:

a- Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ sinh ra trăm con. Sự thực về thời thượng cổ, giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại các miền thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ thống nhất do các biến thiên của lịch sử, các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đã đạt đến hình thức quốc gia là: Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu, và Lạc Việt.

Việt Sử Toàn Thư cũng nhắc đến sinh hoạt của Việt tộc thời bấy giờ:

Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ, là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, dao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu đời Xuân Thu.

Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh, và các thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu Lự, thuyền có lầu tức là Lâu Thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua Thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến.

Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá, gạch. Việt tuyệt thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ còn di tích đến đời Hậu Hán.

Về văn hóa, tinh thần của người Việt, chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng, tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai, ba tiếng Hán.

Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc.

Về tính tình, người Hán cho người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo về việc binh, không sợ chết. Việt tuyệt thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy, lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ. Ngoài ra, người Việt lại thường hòai vọng phát triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này thì quân chủ lực của Việt ập đến.)

b- Dựa vào các tài liệu về chủng tộc, Việt Sử Toàn Thư viết:

Cứ những điều chúng ta biết về đặc tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông-gô-lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng ở miền Nam và Tây Nam Á châu (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống Tạng-Miến (Tibeto-Birman) và Anh-đô-nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỹ thuật. Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng-Miến gần nhau quá, nếu có khác nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ vì sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng đã sống gần gũi nhau nên có sự trạng này hay là đã cùng thoát thai ở cùng một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền Axam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đã có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á châu.

Sự phân vân của các học giả về sự tương đồng rất gần gũi giữa người Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng đã được nhà khảo cứu Bình Nguyên Lộc giải quyết trong một công trình biên soạn công phu : Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam.

4./ Bình Nguyên Lộc với tác phẩm Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam

Học giả Bình Nguyên Lộc hòan thành tác phẩm với lập luận rằng người Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng chỉ là một, thuộc chủng Mã-Lai mà địa bàn phát tích của họ là vùng chân núi Hi-Malaya.

Hi-Malaya có nghĩa là núi của người Malaya. Danh từ Hi này còn thấy được trong ngôn ngữ Nhật Bổn ngày nay. Họ đọc là Khi, nhưng khi cần viết tiếng Khi bằng chữ La tinh, họ vẫn viết là Hi.

(Có lẽ Hi biến thành Hui rồi thành Núi bằng vào những xâu chuỗi biến dạng kỳ dị ở chương Ngôn Ngữ Tỹ Hiệu).

Xuyên qua 892 trang sách, học giả Bình Nguyên Lộc đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu của nhiều tác giả viết về con người vào thời thượng cổ và những biến động lịch sử, trải khắp từ Trung Quốc, Ấn Độ, và vùng Đông Nam Á. Ông bổ túc những điều nghi vấn hoặc bỏ sót của một số giả thuyết và đả phá mạnh mẽ hai sử gia Nguyễn Phương (Việt Nam) và Mộng văn Thông (Trung Hoa) với chủ trương của họ : Việt là Tàu và Tàu là Việt.

Tác giả Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam cũng dành ra 240 trang sách để viết về Dấu Vết Mã Lai Trong Xã Hội Việt Nam Ngày Nay qua các minh chứng:

a- Việc kính trọng trống đồng được sử gia Lê Quý Đôn ghi chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.

b- Về âm nhạc, trên thế giới hiện nay chỉ có ba dân tộc có cây đàn độc huyền, đó là dân Việt Nam, dân Mã Lai ở Indonesia, và dân Malayalam ở Nam Ấn.

c- Lối kiến trúc nhà chữ Đinh, mái nhà cong qướt lên, nhà bếp cách với nhà ở, ngói dẹp, nhà rầm.

d- Tự trị thôn xã và thần làng.

e- Thờ mặt trời và âm dương vật.

f- Đối chiếu chỉ số sọ:

‘‘Theo B.S. Huard và các cộng sự viên, cái sọ không phải chỉ có đặc sắc ở kích thước, mà các chi tiết về sinh vật hình thái (caractères morphologiques) rất có ý nghĩa quan trọng về mặt chủng tộc. Kết quả đối chiếu chỉ số sọ, ta biết bốn điều quan trọng:

-Sọ ta khác sọ Hoa Bắc và Hoa Nam rất nhiều về chỉ số và dung lượng.
-Sọ ta giống hệt sọ Mã Lai.
-Sọ ta có tánh cách brachycephale của Mã Lai trong khi đó đa số sọ người Hoa thuộc loại mesocephale.

Tất cả các dân mà tiền sử học nói là Mã Lai đều có sọ Mã Lai.’’

g- Ngôn ngữ tỹ hiệu: ‘‘Ngữ vựng của dân tộc nào cũng vay mượn lung tung, tuy nhiên các cuộc vay mượn còn để dấu thời gian lại. Nếu phải vay mượn của Tàu, thì ta chỉ vay mượn những tiếng chỉ những ý niệm phức tạp, những dụng cụ và vật dụng lạ, chớ không thể nào ta lại vay mượn một danh từ để chỉ Nước là chất mà ta uống hằng ngày và ta đã phải có tiếng gọi hàng ngàn năm rồi.

Hàng vạn tiếng Hán Việt đã thành hình đủ để làm một ngôn ngữ, nhưng không bao giờ thành ngôn ngữ cả vì không ai mà nói chuyện với nhau bằng loại tiếng đó, các quan đại thần, các nhà trí thức nói chuyện với nhau cũng nói bằng tiếng Việt.’’

Bình Nguyên Lộc đưa ra 200 biểu đối chiếu tiếng nói giống nhau của Việt Nam, Mường, Khả, Chàm, Ba Na, Thái, Cao Miên, Mã Lai Á, v.v…

5./ Ngôn Ngữ

Từ trước, đã có nhiều học giả nghiên cứu và đồng ý về sự tương đồng ngôn ngữ của các sắc dân trong vùng Đông Nam Á.

a- Giáo sư ngữ học Nguyễn Đình Hòa trong một bài khảo luận Cần Đả Phá Một Vài Huyền Thoại Về Tiếng Việt, đã nêu lên ý chính:

‘‘Trước khi đi sâu thêm vào đề tài hôm nay, chúng ta cần đả phá một vài huyền thoại. Mấy người nước ngoài đã hỗn xược nói rằng tiếng Việt là một thổ ngữ của tiếng Trung Hoa. Họ quên rằng tiếng Việt, tiếng Nhật Bản, tiếng Cao Ly, chỉ là những ngôn ngữ đồng văn với Hoa ngữ vì cả bốn đều xử dụng chữ Hán của Trung Quốc chứ bốn ngôn ngữ đó không có quan hệ thân tộc tức họ hàng gì với nhau cả. Ngày nay các nhà chuyên môn đã đồng ý rằng tiếng Việt và tiếng Mường là ngôn ngữ chị em thuộc dòng Môn Khờ Me trong đại ngữ tộc Nam Á (Austroasiatic)’’.

b- Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng đã dành suốt cuộc đời nghiên cứu về ngôn ngữ của dân tộc, phát hành một công trình biên soạn gía trị : Tự Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt (Vietnamese Cognatic Dictionary).

Bác sĩ Vọng giải thích: “Nhưng trên hết là, với 275 ngàn thí dụ đồng nguyên (cognatic correspondence) và hàng chục bản đồ ghi chỗ ở và nơi xuất phát của các dân tộc bộ lạc ở khắp vùng Đông Nam Á và bảng so sánh tiếng đồng nguyên của hàng chục ngôn ngữ Đông Nam Á với chừng 27 ngàn tiếng Việt của cả ba miền Bắc, Trung, Nam, để cho ai cũng thấy, người Việt cũng như người ngoại quốc, hiểu và ý thức được rất rõ ràng là tiếng Việt là tiếng Việt, không phải do Tàu mà ra, trái lại tiếng Việt là anh em họ hàng với bao nhiêu là tiếng nói khác ở Đông Nam Á, mặc dù qua hơn hai ngàn năm, cái chữ viết khác nhau của các thứ chữ ĐNA đã làm cho ta lầm tưởng là cái âm, cái tiếng, cái nghĩa của các ngôn ngữ đó cũng khác nhau luôn! Thật ra chúng nó đều giống nhau đến mức ngạc nhiên, sững sờ.”

Bác sĩ Vọng cũng nói thêm: “Nên biết rằng từ ngàn xưa, tiếng Việt đã được nói từ Động Đình Hồ qua tới Ấn Độ chân núi Himalaya và xuống tới 10 ngàn hòn đảo của Indonesia, theo các nhà ngữ học của giòng ngôn ngữ Austronesian.

Tiếng Mường là “tiền Việt”, giống nhau 95% với tiếng Việt. Tiếng Nùng, Thổ, Tày cũng lai 50% Thái Lào, 50% Việt mà đáng kể là họ dùng 100% tiếng Hán Việt.

Dân H’mong ở phía Tây Nam hồ Động Đình vẫn có khoảng 300 tiếng nói chung với dân Việt. Người Khasi ở chân núi Himalaya vẫn nói cả hàng trăm câu tiếng Việt xưa y hệt như chúng ta (mi shông h.ơ ni # tôi sống ở đây). Dân Indonesia và Malaysia (230 triệu) cũng có cả ngàn tiếng một y như tiếng Việt.

Tiếng Chăm có chung cả 3.500 từ ngữ thông thường giống với tiếng Việt miền Trung. Sao vậy? Là vì tiếng Việt chung dòng với tiếng Chăm đã từ mấy ngàn năm về trước chớ không phải chỉ có từ khi dân Việt mới biết đến dân Chàm, lại càng không phải chỉ mới từ khi Việt đánh nhau với Chàm.

c- Một sơ đồ khảo cứu ngôn ngữ trên thế giới, nhan đề : ‘‘Language Families of the World’’ phát hành năm 1999 của hai giáo sư Joseph Greenberg và Meritt Ruhlen thuộc trường đại học Stanford (California) đã sắp xếp tiếng Việt và Khmer vào nhóm Austroasiatic cùng ngữ tộc với các tiếng Tagalog, Malay, Javanese, Malagasy, Fijian, Samoan, Tahitian, Miaori, Hawaiian, Thai, Lao, Hmong, Miến, gồm 1175 ngôn ngữ và do 293 triệu người xử dụng

6./ Văn Hóa Hòa Bình.

Nền văn minh cổ thời của người Đông Nam Á đã được Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim, giáo sư nhân loại học của trường Đại Học Hawaii đúc kết trong một bản nghiên cứu nhan đề: Ánh Sáng Mới Trên Một Quá Khứ Bị Quên Lãng (New Light On A Forgotten Past) với những minh chứng tích cực:

Trước hết giáo sư xác định, Đông Nam Á thời tiền sử gồm có hai phần. Phần thứ nhất là lục địa Đông Nam Á, trải dài từ núi Chin Ling phía Bắc sông Dương Tử đến Singapore và từ biển Nam Hải kéo về hướng Tây xuyên qua Miến Điện vào đến Assam. Phần kia gọi là Đông Nam Á hải đảo là một hình cung từ đảo Andaman phía Nam Miến Điện vòng qua Đài Loan bao gồm Indonesia và Philippines.

Giáo sư và cộng sự viên đã làm công tác khai quật tại Non Nok Tha, một địa điểm biên giới Lào, Thái và đã tìm thấy nhiều di chỉ quan trọng:

  • Một mảnh gốm vỡ có dấu vết vỏ trấu của hạt lúa Oriza sativa và khi đem xác định niên đại bằng carbon được biết rằng chậm nhất là vào khoảng 3.500 năm trước công lịch. Như vậy hạt lúa này đã hiện diện tại đây hơn 1.000 năm trước các hạt lúa đã tìm thấy tại Ấn Độ và Trung Quốc đã được các nhà khảo cổ ngày trước cho rằng là hai nơi đầu tiên của thế giới biết dùng lúa gạo làm thực phẩm.
  • Một nông dân người Thái đào được một lọ gốm có hình vẽ giống như lọ gốm ở khu vực Udon Thani, Đông Bắc Thái Lan có niên đại 4.700 năm trước công lịch.
  • Những vòng đồng hoen rỉ vẫn còn nằm trong xương cánh tay và xung quanh đó những cơ thể khác có ít hoặc không có trang sức, chứng tỏ rằng nơi đây đã hình thành một xã hội được tổ chức hòan chỉnh từ thiên niên kỷ thứ hai trước công lịch.
  • Xác định niên đại bằng carbon, chúng ta biết rằng những rìu bằng đồng được đúc bằng khuôn đôi bằng đá đã được chế tạo tại Non Nok Tha vào khoảng 3.000 năm trước công lịch. Như vậy, những dụng cụ bằng đồng này có sớm hơn 500 năm so với những dụng cụ bằng đồng tìm thấy tại Ấn Độ và 1.000 năm trước Trung Quốc. Những khuôn đúc hình chữ nhật được tìm thấy từng cặp, chứng tỏ rằng chúng được đặt sát nhau và những mảnh vỡ của lò đúc và mẫu đồng vụn vương vãi đó đây làm chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa, nơi đây từ ngàn xưa là một xưởng chế tạo rìu.
  • Những phần cơ thể trâu bò chôn theo những đám táng thời cổ sơ tại Non Nok Tha được xác định là những gia súc tương tự với giống bò Á châu Zebu (Bos Indicus). Đây là sự tìm thấy về việc nuôi súc vật làm thực phẩm có sớm nhất tại vùng Đông Á.
  • Chester Gorman, một nghiên cứu sinh, trình luận án tiến sĩ tại Đại học Hawaii đã tìm thấy ở Hang Tử Thần (Cave of Death) gần một con suối đổ vào sông Salween của Miến Điện, những phần của thực vật đã bị carbon hóa gồm có hạt đậu, hạt giẽ, hạt tiêu và những mẫu của quả bầu, quả dưa nằm vươn vãi với những dụng cụ đồ đá kiểu mẫu Hòa Bình.
  • Những mẫu xương của súc vật bị chặt ra nhưng không bị đốt cháy khiến cho chúng ta nghĩ rằng thịt đã được nấu chín trong những ống tre tươi như người ta vẫn làm hiện nay ở vùng Đông Nam Á. Xác minh niên đại bằng carbon 14 cho thấy rằng các vật liệu này đã xuất hiện từ 6.000 năm đến 9.700 năm trước công nguyên.

Sau khi trình bày thêm nhiều chi tiết khác nữa, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim đưa ra giả thuyết:

a- Đồng ý với Sauer rằng cây trồng dùng làm thức ăn được thực hiện trước tiên bởi cư dân của văn hóa Hòa Bình vào khoảng 15.000 năm trước công lịch.

b- Những dụng cụ bằng đá mài được tìm thấy ở Bắc Úc Đại Lợi, xuất hiện 20.000 trước công lịch, có nguồn gốc xuất phát từ văn hóa Hòa Bình.

c- Thay thế quan niệm cổ điển trước đây cho rằng những di dân từ phương Bắc đã đem những tiến bộ quan trọng đến vùng Đông Nam Á thời tiền sử bằng giả thuyết rằng nền văn hóa đồ đá mới của vùng Bắc Trung Quốc được tìm thấy ở Yangshao là do văn hóa Hòa Bình phát xuất từ Bắc Đông Á và di chuyển lên hướng Bắc vào thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước công lịch.

d- Những thuyền độc mộc được xử dụng trước tiên trên các sông ngòi vùng Đông Nam Á trước thiên niên kỷ thứ 5. Khoảng 4.000 năm trước công lịch, bộ giàn bằng cây gắn chung quanh thuyền được phát minh làm cho thuyền trở nên vững vàng hơn khi vượt biển, đã đưa đến những cuộc hải hành từ Đông Nam Á đến Đài Loan và Nhật Bản, du nhập vào đất Nhật cách trồng cây khoai sọ và một số hoa màu khác.

e- Vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước công lịch, những cư dân Đông Nam Á thành thục xử dụng ghe thuyền đã đi vào quần đảo Indonesia và Philippines. Họ mang theo những kiểu mẫu nghệ thuật hình xoắn ốc, hình tam gíac, hình chữ nhật dùng trang trí đồ gốm, khắc vào gỗ, xâm mình, quần áo và dệt sợi. Đây là hình thể nghệ thuật tương tự với hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn.

f- Người Đông Nam Á cũng đi về hướng Tây, đến tận Madagasca vào khoảng 2.000 năm trước đây. Họ đã đóng góp một số cây trồng hữu ích đối với nền kinh tế Đông Phi châu.

g- Cũng vào thời ấy bắt đầu có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa Trung Hải bằng đường biển làm phát triển ngành thương mại. Nhiều dụng cụ đồng thau khác thường xem như có nguồn gốc phát tích từ Địa Trung Hải đã được tìm thấy ở Đông Sơn.

7./ Stephen Oppenheimer và tác phẩm Thiên Đường ở Phương Đông : Lục Địa Chìm Đắm của Đông Nam Á ( Eden in the East : The Drowned Continent of Southeast Asia)

Lý thuyết chính yếu của tác phẩm là, lần đầu tiên đặt Đông Nam Á vào trung tâm của các nguồn văn hoá và văn minh.

a- Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9.000 – 10.000 năm về trước, cư dân vùng Đông Nam Á không chỉ là người săn bắn và hái lượm ban sơ như giới khảo cổ Tây phương thường mô tả mà là những nhà nông chuyên nghiệp biết trồng luá nước, khoai lang, khoai sọ.

b- Dưạ vào yếu tố và dữ kiện địa chất học, Oppenheimer cho rằng khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước biển dâng cao tràn ngập các vùng đất thấp làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giới di tản khắp nơi, đến những vùng đất cao hơn để sinh tồn. Họ theo hướng Nam đến Úc Đại Lợi, hướng Tây đến Ấn Độ và hướng Bắc vào vùng đất liền Châu Á. Trong cuộc di cư vĩ đại nầy, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, tổ chức xã hội đến cac vùng đất mới. Những người lánh nạn đại hồng thuỷ nầy là những hạt giống cho nền văn minh lớn khác mà sau nầy được phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai cập và Địa Trung Hải.

c- Công trình nghiên cứu của Oppenheimer còn dựa trên nguồn taì liệu khoa học đáng tin cậy, đó là khoa di truyền học và từ đó tác giả kết luận: ‘‘Tôi cho rằng nhiều người phải rời bỏ Vùng duyên hải của họ ở phương Đông vì lụt lội. Những người lánh nạn nầy đã vun đắp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây’’ .

Trong lãnh vực di truyền học, tháng ba năm 2007, các nhà khoa học thuộc Đại học Durham và Oxford của Anh quốc đã nghiên cứu DNA của heo rừng và heo nhà ở vùng Nam Thái Bình Dương và nêu giả thuyết mới về nguồn gốc cư dân các đảo ở vùng nầy .

Tiến sĩ Keith Dobney thuộc khoa khảo cổ Đại học Durham cho biết đã tiến hành nghiên cứu loại gene ít bị biến đổi trên 781 con heo ngày nay và gene heo sống từ thời xa xưa lấy được từ các Viện bảo tàng. Họ nói rằng do có mối liên quan gene rõ ràng giữa heo hiện nay ở Việt Nam và heo ở các đảo Sumatra, Java, New Guinea, New Oceania cùng nhiều đảo Nam Thái Bình Dương, nên họ cho rằng phần lớn các cư dân sống trên các đảo nầy có nguồn gốc từ Việt Nam chứ không từ Đài Loan.

Tiến sĩ Greger Larson, tác giả chính của nghiên cứu, nhận xét rằng heo tuy bơi giỏi nhưng không đến mức có thể bơi đến tận Hawaii. Như thế chúng phải được người di cư chuyên chở đến đó và đây là minh chứng tuyệt vời về hoạt động di cư của con người. Theo ông, tổ tiên của các cư dân trên các hòn đảo xa xôi đã rời Việt Nam cách đây vào khoảng 3.600 năm và họ đã đi qua nhiều hòn đảo trước khi đến các đảo Nam Thái Bình Dương. Ông hy vọng nghiên cứu nầy sẽ mở ra một cửa sổ mới về nguồn gốc cư dân vùng nầy .

8./ Giáo sư Cung đình Thanh và tác phẩm Tìm về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dưới Ánh Sáng Mới của Khoa Học.

Song song với lý thuyết của Oppenheimer, tại Chương 8 viết về Nguồn Gốc Dân Tộc theo Cổ Sử Nhân Chủng và Khảo Cổ Học, giáo sư Cung đình Thanh đưa ra kêt luận :

‘‘Khi nước biển đã đến thời kỳ Flandrian, phù hợp với giai đoạn giãn băng cuối cùng vào khoảng 18.000 năm trước đây, cho đến lúc đồng bằng sông Hồng bắt đầu bị đe doạ thì người Cổ Vỉnh Phú một phần di cư lên bám trụ ở vùng Tây Bắc và vùng các hang động cao ở Hòa Bình, phần khác, lớp có óc phiêu lưu hơn đã đi lên phía Bắc qua hai ngả, một ngả đi qua Vân Nam đến Tứ Xuyên, Quế Châu, Thiểm Tây, một ngả đi theo ven biển phía Đông lên đến Triết Giang, Giang Đông, Sơn Đông và gặp những vùng đất tốt mới, những môi trường thuận lợi, họ đã ở lại sinh sống, phát triển và từng nhóm họ đã tạo lập ra những nước nhỏ mới. Về sau chính những nước nhỏ nầy, khoảng 3.000 nươc, đã qui tụ lại để trở thành những nước lớn, sẽ tham dự vào việc tranh dành quyền làm chủ đất Trung Nguyên ở thời Xuân Thu, Chiến Quốc (770 – 221 trước Kỷ Nguyên).

Khi nước biển bắt đầu rút và đồng bằng Vĩnh Phú từng bước bắt đầu được tái lập vào khoảng từ 6.000 năm trở lại đây, thì lại thấy có sự hội tụ những người trở lại đồng bằng đó. Đó là bắt đầu của Văn Hoá Phùng Nguyên, cũng là thời đại đồng thau và thời kỳ thành lập ra nhà nước Văn Lang của Vua Hùng …

Khi người Hoa Hán thống nhất đại lục dưới triều Tần, Hán khiến những người gốc Bách Việt không chịu đồng hoá phải rời bỏ Trung Nguyên. Bằng cớ nữa là có dấu ấn văn hoá phương Bắc góp phần xây dựng lên Văn Hoá Phùng Nguyên và nhà nước Văn Lang vậy. Đó là chưa kể đến cách đối xử kỳ thị của các chính quyền Hoa Hán từ đời Tần về sau đối với dân bản địa gốc Hòa Bình.’’

9./ Harold Wiens và tác phẩm Trung Quốc Tiến Quân Vào Vùng Nhiệt Đới (China’s March Toward The Tropics).

Thiên khảo luận nầy xây dựng trên chín Chương gồm trong 352 trang sách và 32 bản đồ phụ lục, chứa đựng những kiến thức uyên bác của một giáo sư đại học, Đại học Yale.

Ngay tại Chương I, giáo sư Harold Wiens (1912-1971) đã nêu lên chủ đề dân tộc: “Người Hoa Hán phát triển văn hoá trong khu vực Hoàng Hà, mở rộng vào vùng Dương Tử và rồi đến Tây Giang. Họ chinh phục và xua đuổi, hoặc tiêu diệt hoặc đồng hoá những bộ lạc đang cư ngụ trên những bình nguyên của Dương Tử và Tây Giang (Nguyên văn: The Han-Chinese, developing their culture in the Huang-Ho region, expanded first into the Yang-Tzu and then in the Hsi-Chiang region, conquering, and driving out, or exterminating, or absorbing the tribes peoples occupying the Yang-Tzu and Hsi-River valley)”.

Trên cơ sở nầy, giáo sư khai triển đầy đủ các chứng tích, giải đáp thoả đáng các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hoá tồn tại xưa nay trong khu vực:

– Dân tộc nào đã chiếm lĩnh khu vực rộng lớn miền Nam Trung Quốc trước khi người Hoa Hán (Han-Chinese) đến.

– Những yếu tố cơ bản nào làm nên những đợt sóng bất tận của người Hoa Hán tràn về phương Nam, phủ ngập các cư dân bản địa và nền văn hoá của họ.

– Những gì đã xảy ra cho những sắc dân ở miền Nam Trung Quốc không thuộc giống nòi Hoa Hán.

– Kẻ thống trị đã áp dụng kỹ thuật bành trướng đế quốc như thế nào để củng cố những phần đất chinh phục được ở phương Nam và đồng hoá những dân tộc không thuộc dòng giống Hoa Hán.

– Những chướng ngại về địa lý, văn hoá, chính trị nào đã làm chậm bước tiến của chủ nghĩa đế quốc Hoa Hán.

– Thực chất về mối liên hệ của chính quyền trung ương đối với những quốc gia trong vùng Đông Nam Á có chung biên giới và sự kiện nầy sẽ ảnh hưởng như thế nào vào khu vực Đông Nam Á.

– Cuối cùng, làm thế nào để ngăn chặn sự bành trướng của người Hoa Hán vào vùng nhiệt đới.

Mặc dù được phát hành năm 1954 và chỉ còn lưu trử trong các thư viện, nhưng nội dung của sách với những sự kiện lịch sử, địa lý, nhân chủng, văn hoá là những yếu tố đã có từ nhiều ngàn năm trước và liên tục hiện hữu cho đến ngày nay nên tác phẫm vẫn giữ được gía trị bền vững.

Riêng đối với người Việt Nam chúng ta, đây là tài liệu tham khảo cần thiết vì lý do sau khi rút quân khỏi các tỉnh biên giới phía Bắc năm 1979, Đặng tiểu Bình – một lãnh tụ hàng đầu của Trung Cộng – không kiềm chế được những cảm xúc sôi nổi, đã bộc lộ ẩn ức lịch sử giữa một cuộc họp báo : ‘‘Việt Nam là vấn đề hàng trăm năm, hàng ngàn năm đối với Trung Quốc’’!

10./ Phạm việt Châu và tác phẩm ‘‘Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh’’

Tác giả Phạm việt Châu (1932-5/5/1975) xác định rõ ràng vị trí địa lý, yếu tố văn hoá, chính trị, và lẽ sống còn của giống nòi Bách Việt :

“Bàn tiếp đến cái mà chúng tôi gọi là vị trí định mệnh, nếu đứng trên bình diện nhân văn, chúng tôi nghĩ đến cái lò pha trộn các món văn hoá, thì đứng trên bình diện nhân chủng, chúng tôi lại nhìn thấy hình ảnh cái hồ lớn nằm kề lục địa Đông Á để hứng lấy và bao bọc tất cả những bầy cá bị săn đuôỉ từ các dòng suối, dòng sông tản lạc về; chúng tôi muốn nói tới các bộ tộc Bách Việt qua nhiều đợt nam thiên dưới áp lực của Hán tộc.

Ngày nay, xét về xã hội Người tại Đông Nam Á, những nhà nghiên cứu nhân chủng không khỏi ngạc nhiên khi thấy một khu vực có vẻ hỗn tạp nhất nếu nhìn thoáng qua bên ngoài, lại cũng là nơi tương đối thuần nhất nếu đào sâu, bới rễ bên trong. Thật vậy, trừ những sắc dân cổ còn lại rất ít và khối người Trung Hoa mới hình thành gần đây, tất cả thành phần dân số chính cấu tạo nên tập thể Đông Nam Á ngày nay đều bắt nguồn từ chủng tộc Bách Việt mà các nhà nhân chủng học Tây Phương khi phân loai thường gọi là Indonesian hay Malay.

Với hình ảnh cái hồ, chúng tôi cũng nghĩ đến đoạn đường chót của cuộc hành trình lịch sử. Thật vậy, chúng ta không còn đường nào, nơi nào để mà thiên di xa hơn nữa. Cửa ngõ thế giới đã khép lại trong khi áp lực từ phương Bắc, dưới hình thức nầy hay hình thức khác vẫn tiếp tục đè nặng xuống. Chúng tôi cũng không thể nghĩ khác hơn là ý nghĩ của người Thái, anh em ở bên kia bờ sông Cửu về cùng một mối lo chung của nhân dân ‘‘Trăm Việt trên Vùng Định Mệnh’’ nầy. Ý nghĩ ấy đã được cựu ngoại trưởng Thái, Thanat Khoman phát biểu : Không còn có chỗ nào cho chúng tôi lui thêm được nữa! Do đó với chúng tôi nơi đây là kháng điểm đầu tiên và cũng sẽ là kháng điểm cuối cùng!

Là kháng điểm cuối cùng, thật thế! Cái ý nghĩ bi tráng ấy phải được cảm chiêu sâu sắc để từ đó khơi dậy ý thức đề kháng tự nhiên, chẳng riêng với Trung Hoa mà còn cả với các cường lực khác’’.

o O o

Loài người tồn tại một cách ưu thế giữa các sinh vật khác nhờ vào khả năng tìm hiểu, suy luận. Từ nhân tính nầy con người không thể chỉ ăn, ngủ, dửng dưng, vô cảm với những hiện tượng xảy ra chung quanh, vì vậy họ đã hình thành các tôn giáo, hoặc lao vào khoa học để tìm sự giải đáp cho các câu hỏi : con người từ đâu đến, đang làm gì, và sẽ đi về đâu?

Trường hợp một người Việt Nam cũng mang niềm ưu tư đó với những chi tiết rõ rệt hơn: dân tộc chúng ta có nguồn gốc từ đâu, đang sinh sống như thế nào và rồi tương lai sẽ ra sao, thì bài viết nầy được xem như là sự nhắc nhở bước đầu. Con người trong cuộc sinh tồn cũng như chiến binh khi lâm trận, ngoài những trang bị đầy đủ còn phải xác định vị trí xuất phát hay là điểm đứng của mình để di chuyển không lạc lối, phân biệt bạn thù.

Những tranh luận sôi nổi, những biên khảo công phu về nhân chủng và văn hoá của Vùng Đông Á, Đông Nam Á đang được minh định bằng những dữ kiện phức tạp hoặc những khám phá mới nhất, hầu hết đều đồng ý về một ranh giới giữa Việt tộc và Hán tộc và sự cạnh tranh sinh tồn giữa Việt và Hán khởi sinh từ nhiều ngàn năm trước tại lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà. Các cư dân đã lập nên các quốc gia trong Vùng Đông Nam Á, các sắc tộc trong các khu tự trị tại Hoa Nam đều có chung một cội nguồn phát tích. Họ là những dân tộc trong Đại Tộc Bách Việt.

Sự sinh tồn của Việt tộc trong thời tiền sử đang được tái hiện, phù hợp với nhu cầu của nhân loại, đánh trả mưu đồ bành trướng của Đế quốc Hoa Hán trong thời đại toàn cầu hoá. Hoa Kỳ và các quốc gia tiếp giáp với Thái Bình Dương đã thoả thuận xây dựng một khu vực liên hiệp kinh tế rộng lớn bằng Hiệp Ước Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) gọi tắt là TPP.

Khu Vực Hoá (Regionalisation) là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình Toàn Cầu Hoá (Globalisation). Vùng Đông Nam Á Châu văn minh, giàu mạnh, tự do, dân chủ là một trục quan trọng có đủ khả năng duy trì sự quân bình giữa các thế lực trên thế giới.

Các dân tộc Đông Nam Á kết hợp khắng khít với nhau như một liên minh Bách Việt, một chiến tuyến đa diện (kinh tế, văn hoá, chính trị, quốc phòng) sẽ chặn đứng làn sóng chinh phục ồ ạt tiến về phương Nam một lần nữa của con cháu Tần Thuỷ Hoàng bằng bất cứ chiến pháp nào: đồng Yuan hoặc hạm đội.

Biển Đông Việt Nam thường được xem là nơi có nhiều nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới. Một vài khuôn mặt quốc tế gốc Trung Đông không phải Ả Rập khuyến cáo Mỹ chia đôi Thái Bình Dương với Trung Cộng để giữ lấy hoà bình. Một sáng kiến quái đản và hèn hạ! Giải pháp Đối Tác Chiến Lược Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương có tính nhân bản và ưu thế tất thắng.

Trong vận hội nầy, mỗi người Việt Nam gạt bỏ tất cả những vị kỷ, thành tâm tìm đến với nhau, tận tâm, tận lực cùng nhau xoay chuyển thời cơ, lật đổ bạo quyền cộng sản toàn trị hiện hành, xây dựng một chế độ tự do, dân chủ thật sự. Đời sống con người có giới hạn, nhưng Dân Tộc trường tồn là danh dự và là trách nhiệm của mỗi người Việt Nam.

Chúng ta, những người Việt Nam trong lãnh thổ từ Đồng Văn đến Cà Mau, từ đồng bằng đến miền sơn cước, người Kinh, Thượng, Khmer, Chàm …gọi nhau là đồng bào với ý nghĩa chính xác, thiêng liêng và xúc động.

Thế Việt

luocsutocviet