Thông qua Trung Á vào thế kỷ II TCN, sứ bộ 張騫 Trương Khiên lần đầu tiên đã bắt đầu đặt mối quan hệ chính thức giữa Trung Quốc và phương Tây. Nhưng khi đến Bactria, Trương Khiên đã trông thấy đồ tre và vải vóc quần áo có nguồn gốc từ các vùng thuộc tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên ngày nay. Ông hỏi người dân địa phương và được biết họ có được các hàng hóa ấy thông qua một đất nước giàu có gọi là Ấn Độ, nhờ thế, khi suy nghĩ về những khó khăn hiểm nguy của con đường phương bắc thường xuyên bị những sắc dân du mục Trung Á cắt đứt, Trương Khiên đã nảy sinh ý tưởng mở một tuyến đường từ Trung Quốc đến phương Tây từ phía Nam.

Đồ tre nứa và vải vóc đã đến đây bằng cách nào? Trong khi đó ở Trung Quốc thì lại rất sẵn? Thật khó nói. Thực tế thì những dữ kiện mà Trương Khiên thu được đã tác động sâu sắc đến một phương thức hành động mới đối với việc mở đường về phương nam của người Trung Quốc.

Bắc Kỳ lúc đó, sau nhiều thăng trầm đã trở thành châu quận của đế chế Hán. Nằm ở tâm điểm của cơn lốc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Hậu Hán, vào nửa sau của thế kỷ II SCN, Bắc Kỳ lại là chốn nương thân yên bình của đế chế. Đồng thời nó còn là con đường thương mại chủ đạo giữa Tiểu Á và Viễn Đông, nơi mà vào năm 166 SCN, sứ bộ của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius đã cập bến.

Vương quốc Phù Nam

Và chính điều đó đã đặt Trung Quốc vào mối quan hệ với một loạt quốc gia trung gian nằm trên tuyến đường nối giữa Bắc Kỳ với Đông La Mã. Trong số các quốc gia đó, vượt qua Lâm Ấp cư chiếm bờ biển đông An Nam, có một nơi mà người Trung Quốc không đóng vai trò gì đáng kể trong những thế kỷ đầu SCN, đó chính là Phù Nam.

Từ thế kỷ III đến thế kỷ VII, người Trung Quốc thường nói về quốc gia Ấn Độ hóa này, nơi dường như mọi khách hải hành buộc phải dừng nghỉ trên con đường dài giữa Ấn Độ và Trung Quốc.

Nhưng vào thế kỷ VII, cái tên Phù Nam đã biến mất không để lại dấu vết. Từ đó người Trung Quốc cũng không thể xác định được đất nước này, còn các nhà Trung Quốc học thì lại chuyển Bắc Kỳ đến Malaysia, và chuyển Malaysia đến Miến Điện. Tuy nhiên, các phát hiện khảo cổ học 35 năm qua đã bắt đầu làm sáng tỏ lịch sử bán đảo này. Các dữ liệu của Trung Quốc đã dần dần được tinh lọc.

Mới đây một số nhà Trung Quốc học đã thử đặt Phù Nam vào khu vực Thái Lan; đối với một số nhà nghiên cứu khác thì nó thậm chí còn là tiền thân của Cambodge, nhưng với một khoảng cách quá xa về phía tây, có thể đến tận vùng biển Ấn Độ Dương.

Cuối cùng ông Aymonier cũng bắt đầu dành bài viết đầu tiên trên tạp chí Journal Asiatique [1] cho một bài viết đặc biệt để xác định Phù Nam. Ông đưa vào đó các tri thức của mình về Cambodge và dẫn Mã Đoan Lâm do Hervey de Saint-Denys dịch, đưa quan điểm của Rosny về các tộc người phía đông được coi là người Trung Quốc cổ, và dẫn thông tin về các cuộc khảo sát Đông Dương [2] từ các văn bản Trung Quốc. Ông Aymonier tuyên bố “Cuối cùng chúng tôi không chạy theo quan điểm của các tác giả nói rằng trí thức Trung Quốc chỉ đưa ra sự ganh đua vô nghĩa cho các giải pháp về vấn đề xác định Phù Nam”.

Thật ra sẽ rất đáng chú ý khi biết các nhà khoa học mưu trí đã tưởng tượng cái gì để đơn giản hóa vấn đề Phù Nam, xóa bỏ các văn bản chỉ khi đất nước được đặt tên. [3] Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó, vì ông Aymonier không phân loại quan điểm của họ, và không từ bỏ, mà “vẫn” sử dụng các nguồn sử liệu Trung Quốc. Điều này chủ yếu là vì ông nghĩ rằng các nguồn đó đem lại “bằng chứng tích lũy được có sức thuyết phục…tính đồng nhất Chân Lạp (Cambodge) và Phù Nam”.

Đó thực sự là kết luận về ký ức kinh đô của nó. Ông Aymonier đã bỏ qua, không nói một lời nào khi thể hiện quan điểm trong cuốn Cambodge (tr.1, 113) của ông, và việc người Phù Nam mở rộng Bắc Kỳ đến Thái Lan; giờ đây đối với ông, Phù Nam là một nước khác về lịch sử và địa lý, so với Chân Lạp (Cambodge), và hai cái tên khác nhau mà người Trung Quốc dùng để gọi cùng một nước trong trường hợp này vẫn không đảm bảo được cho việc xảy ra các bước ngoặt chính trị quốc gia.

Có những sử liệu chính thức khẳng định: “Citrasena (vua Chân Lạp) đã tấn công Phù Nam và buộc họ phải quy phục”. Aymonier nghĩ rằng người ta không thể thắng được vô số luận cứ về điều đó. Ngược lại, tôi tin rằng chúng ta có thể đưa ra một cách lý giải khác về các sự kiện, và tôi cũng muốn khẳng định rằng nếu Phù Nam xâm chiếm lãnh thổ, bành trướng xa về phía tây của cái sau đó là Cambodge lịch sử, mặt khác Chân Lạp trước khi trở thành Cambodge lịch sử vốn đã là một hầu quốc vào cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII, sau đó đã chinh phục được nước tôn chủ của mình. Trước hết tôi sẽ đưa ra tất cả các nguồn sử liệu liên quan đến Phù Nam mà tôi có ở đoạn cuối và tôi sẽ cố gắng sắp xếp để có thể đọc ra một điều gì đó.

I. Trước hết, để tách bạch cho rõ ràng thì cũng cần phải đề cập đến một truyền thống là Phù Nam đã cử sứ bộ đến triều đình Trung Quốc vào năm 1110 TCN. Sau đó lịch sử hoặc truyền thuyết về đoàn sứ bộ đến Đông Dương khá sớm trong các sử liệu Trung Quốc. [4] Sử cũ đầu công nguyên đã ghi rằng các sứ bộ nước Việt Thường đã đến triều đình Thành Vương nhà Chu dâng cống vật lên quan Nhiếp chính liêm trực Chu Công vào thế kỷ XII TCN; và Chu Công được cho là người đã sáng tạo ra la bàn. Lâu nay nước Việt Thường vẫn được cho là thuộc Đông Dương, là nơi theo truyền thuyết Hùng Vương, có 15 bộ phân bố ở vùng nam Trung Quốc và bắc Việt Nam, trong số đó có bộ Việt Thường, và truyền thống lịch sử đồng nhất địa vực của bộ này với vùng Huế ngày nay. [5] Theo truyền thuyết trên, có lẽ chúng ta khó mà lần lại được sự việc giữa Trung Quốc và Đông Dương như vậy có thể xảy ra trong thiên niên kỷ I TCN hay không. Legge [6] đã cho thấy rất khó mà tin được công lao sáng tạo ra la bàn là thuộc về Chu Công. Lẽ ra ông có thể đi xa hơn để hoàn toàn bác bỏ câu truyện bịa đặt về sứ bộ Việt Thường. Tư Mã Thiên đã không hề nhắc đến câu truyện này. [7] Những nguồn sử liệu cổ nhất không đề cập đến câu truyện này, thậm chí không có công trình nào thuộc thế kỷ III và các biên niên sử được viết trên thẻ tre [8] nhắc đến.

Sử liệu đầu tiên nói về sứ bộ ấy là Tiền Hán Thư (k. 44 下, p. 6 v] và Hậu Hán Thư (k. 161, p. 3). Dù sao thì cũng chỉ có vấn đề đó, mà không hề có vấn đề về Phù Nam. Chỉ đến lúc có những tấu sớ thực sự liên quan đến Phù Nam trong những thế kỷ đầu SCN thì tên ông mới được trộn lẫn với sứ bộ Việt Thường. Văn bản đầu tiên ghi về truyện này, theo hiểu biết của tôi, là 古今注 Cổ kim chú do Legge dẫn; ông đã khẳng định là đã chép lại bằng chứng thời Hậu Hán (25 – 220 SCN) [9]; cũng cần phải thêm là Cổ Kim chú được định niên đại vào thế kỷ IV đã qua nhiều chỉnh sửa. [10] Một thế kỷ rưỡi sau đó, các chương viết về âm nhạc** của cuốn Lịch sử nhà Tiền Tống (420 – 478) [11]** đã chép lại một bài hát của 張華  Trương Hoa*** (232-300), người đời Tấn. Trong đó có viết: “Phù Nam sử dụng rất nhiều người phiên dịch*** và sứ bộ 肅愼 Túc Thận thì phải mượn*** quần áo?”.

Tuy nhiên câu này rõ ràng là nói về sứ bộ Phù Nam*** dưới thời Tấn, nhưng đồng thời tiếp theo đó nó lại nói sứ bộ 肅愼 Túc Thận thường được dẫn khi đề cập đến Chu Công thời Việt Thường, dường như ẩn ý khoản cống vật này cho nhà Tấn cũng do chính những sắc dân dâng cống vật cho bậc hiền Chu Công ngày xưa thực hiện; và ngày nay, kẻ thực sự thay thế truyền thống Việt Thường đã nhập cuộc dâng cống vật chính là Phù Nam***. Các tác giả về sau đã chấp nhận một cách vô điều kiện huyền thoại về các sứ bộ từ Việt Thường qua Lâm Ấp (Champa), và Phù Nam; và đó cũng chính là cung cách của Việt sử Thông giám Cương mục. [12]

Đến lượt mình người An Nam cũng chấp nhận huyền thoại Trung Quốc. [13] Le P. Legrand de la Liraye đã tập hợp dữ liệu từ biên niên sử Trung Quốc và từ phần ghi chú của tập Voyage d’exploration en Indo-Chine. [13] Nhưng ông Aymonie lại để mắt đến một nguyên do đáng ngờ; chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng không hề có chuyện Việt Thường gửi sứ bộ đến Trung Quốc vào năm 1110 TCN cung cấp thông tin cho người Trung Quốc về Phù Nam.

II. Theo tôi, trước 三國志 Tam Quốc chí dường như chính sử không cho biết gì về cái tên Phù Nam ở đâu mà ra. Tam Quốc chí bao quát khoảng thời gian từ năm 220-280, được 陳壽 Trần Thọ viết vào cuối thế kỷ III. Au k. 60 là tiểu sử của呂岱Lữ Đại, tướng dưới quyền thái tử nhà Ngô vào nửa đầu thế kỷ III, làm Giao Châu mục cai quản Quảng Đông và Bắc Kỳ.

Truyện viết: 曹丕延康元年,呂岱繼為交州刺史.呂岱除使交州得到安定外,“又遣從事南宜國化**,暨徼外扶南,林邑,堂明諸王,各遣使奉貢*”. Ngụy Văn đế (曹丕 Tào Phi), Diên Khang nguyên niên (220), Lữ Đại kế nhiệm Thứ sử Giao Châu, làm cho vùng đất này được yên ổn “lại khiến tòng sự khai hóa phương nam, vượt ngoài Phù Nam, Lâm Ấp, Đường Minh; quốc chủ các nước này đều sai sứ tiến cống”.

Sau đó, vào năm 231, Lữ Đại được bổ nhiệm vào một vị trí khác, thì hầu như chắc chắn rằng các sự kiện này liên quan đến những năm trước đấy. Sử liệu này nhất quán với hai đoạn trích mà có lẽ tự thân chúng không phải là hoàn toàn đáng tin cậy và tôi sẽ cung cấp thêm trong No XVIII.

Cuối cùng cũng cần phải lưu ý rằng trong đoàn sứ bộ đến Phù Nam vào thời Thái tử Ngô, sẽ được thảo luận ở N X, có một người có chức vụ 宣化從事 Tuyên hóa Tòng sự, điều đó có nghĩa là người 從事 tòng sự ấy làm nhiệm vụ khai hóa văn minh, và đó có lẽ chính là sứ bộ mà Lữ Đại, nhân danh nhà Ngô đã cử họ đi, chứ không phải do Ngô chúa trực tiếp bổ cử, và vì vậy mà sứ bộ chắc chắn phải lên đường vào các năm 225 – 230, khi Lữ Đại còn cai quản phương nam.

___________________________________________

Nguồn: Paul Pelliot 1903. Le Fou-nan, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 3, 1903. pp. 248-303.

Tác giả: Paul Pelliot (和伯希和 Hòa bá Hy hòa) (1878 – 1945) là nhà Hán học nổi tiếng người Pháp, học trò của Sylvain Lévi và Édouard Chavannes. Ông làm việc tại Viện Viễn đông Bác cổ Pháp – École Franҫaise d’Extrême Orient tại Hà Nội, và năm 1900 ông đã được gửi đi Bắc Kinh tìm kiếm sách cho thư viện của Viện. Thời gian ở Bắc Kinh ông đã bị bắt giữ trong Phong trào 義和團 Nghĩa Hòa Đoàn, và bị kẹt trong giai đoạn phong tỏa các tòa công sứ ngoại quốc.  Pelliot đã thực hiện hai vụ đột phá lãnh thổ đối phương trong thời gian bị phong tỏa. Vì hành động dũng cảm đó, ông đã được thưởng huân chương cao quý nhất Bắc đẩu Bội tinh của Cộng hòa Pháp. Năm 22 tuổi ông trở về Hà Nội và nhận ghế giáo sư Hán học tại Viện, sau đó trở thành giáo sư Hán học tại Collège de France, là nơi tập trung những học giả lỗi lạc và danh giá nhất của nước Pháp. Le Fou-nan là một trong số những tác phẩm lớn nhất, đã được viết ra khi Pelliot chỉ mới 25 tuổi.

Ghi chú của người dịch: 

** Trong phần tài liệu dẫn số [11], Pelliot có nói về bộL’Histoire des Song antérieurs, tiếng Hán ghi là 宋書 Tống thư, một trong Nhị thập Tứ sử của Trung Quốc, do 沈約 Thẩm Ước (441-513) phụng chiếu của Tề Vũ Đế biên soạn. Tống thư không chỉ là một bộ sử mà nó còn là một nguồn sử liệu bao gồm các chiếu, lệnh, tấu nghị, trát thư, văn chương, thi phú đều có giá trị cao, kể cả về lý thuyết âm nhạc. Có điều rất thú vị là cho đến tận bây giờ lý thuyết âm nhạc của Thẩm Ước vẫn được đánh giá rất cao. Mới đây, trong các công trình nghiên cứu liên quan đến lý thuyết âm nhạc cổ của Trung Quốc [chẳng hạn như:

Tứ thanh Tam vấn [四聲三問; 作者:陳寅恪; 來源:北京:生活•讀書•新知三聯書店;年卷期: 2001

– Tứ thanh Tam vấn, Tác giả: Trần Dần Khác, Lai nguyên: Bắc Kinh: Sinh hoạt

• Độc thư

• Tân tri Tam liên Thư điếm, Niên quyển kì: 2001;

hoặc 中國佛教文化大觀 Trung Quốc Phật giáo văn hóa đại quan 方廣錩 Phương Quảng Xương chủ biên, 北京大學出版社,出版 Bắc Kinh Đại học xã, Xuất bản năm 2001], dù có hơi cường điệu, nhưng các  học giả đã phần nào có lý khi cho rằng Thẩm Ước đã dựa trên lý thuyết âm nhạc Ấn Độ để xây dựng lý thuyết âm thanh của mình. Tuy nhiên, thực tế lại có một khoảng cách không thể vượt qua nổi về cơ sở lý thuyết âm nhạc Trung Quốc và lý thuyết âm nhạc Ấn Độ. Đối với cơ sở lý thuyết âm nhạc Ấn Độ, khác với âm nhạc thế tục hoặc cách thể hiện tình cảm dân dã kiểu Trung Quốc, nguyên bản âm nhạc truyền thống Ấn Độ được cho là do thần linh sáng tạo ra để tự tiêu khiển, và sau này thần linh đã ban tặng cho con người để chúng vừa làm phương tiện tiêu khiển, vừa làm phương tiện giải thoát khỏi khả tử. Âm nhạc được coi là có phẩm chất linh thánh bẩm sinh; nốt nhạc (स्वर svara) và nhịp phách (मात्रा mātrā) đều phản ánh các năng lượng của vũ trụ. Huyền thoại Ấn Độ nói về việc thần linh ban tặng âm nhạc cho con người để đáp lại lời nguyện cầu hoặc khẩn nài khi tối cần thiết. Đấng Tuyệt đối  ब्रह्म Brahma chỉ ban tặng âm nhạc cho con người sau khi đã thiền định nhiều ngàn năm và các bậc thánh nhân khẩn cầu Người tế độ trần gian khổ não. Vì vậy việc sử dụng âm nhạc trong các tôn giáo ở Ấn Độ là để thể hiện địa hạt của thần linh. Sāma Veda  सामवेद, (sāman =  giai điệu, veda = tri thức) là những lời tụng ca gồm có 3 – 7 स्वर svaras nốt, trong đó mỗi nốt có một मुद्रा mudra thế ngón tay cụ thể là क्रुष्ट kruṣṭa (Pa); प्रथमprathama (Ma), द्वितीय dvitīya (Ga), त्रितीय tritīya (Ri), चतुर्थ caturtha (Sa), मन्द्रmandra (Dha), अतिस्वार्य atisvārya (Ni), अनुदात्त anudātta (Pa). Các tụng ca trongऋग्वेद Rig Veda nguyên bản được tụng bằng các nốt प्रथम prathama (Ma), द्वितीयdvitīya (Ga), và त्रितीय tritīya (Ri). Các nốt này kết nối với ba giọng अनुदात्तanudātta trầm, उदात्त udātta giọng trung, và स्वरित svarita giọng cao. Trong âm nhạc Ấn Độ, khi hát không có chuyện nhịp phách tách rời như kiểu âm nhạc truyền thống Trung Quốc.

*** Dù là một giáo sư Hán học danh giá và lừng lẫy, nhưng Pelliot đã hiểu sai hoàn toàn các kiến thức liên quan trong toàn bộ đoạn này: i) ca từ ở đây không phải là của Trương Hoa mà là của 傅玄 Phó Huyền (217-278); ii) câu 扶南假重譯,肅慎襲衣裳 Phù Nam giả trọng dịch, Túc Thận tập y thường cũng bị dịch ngô nghê ra tiếng Pháp là “Le Fou-nan s’est servi d’interprètes multiples et les 肅慎 Sou-chen ont emprunté les vêtement?” – “Phù Nam sử dụng nhiều người phiên dịch, còn sứ bộ Túc Thận thì phải mượn áo quần”? iii) vì không rõ thể loại 食舉東西廂樂詩Thực cử đông tây sương nhạc thi này, và lại càng không biết sứ bộ Túc Thận người ở đâu, sống vào thời nào, nên Pelliot đoán mò rằng nội dung ca từ nói về sứ bộ Phù Nam, thì đương nhiên Túc Thận cũng là người Phù Nam. Vì thấy vấn đề này rất có ý nghĩa, đặc biệt là trong quan hệ “Di – Hoa” nên tôi (Hà Hữu Nga) sẽ dành phần nói về Túc Thận cho một bài viết kỹ hơn vào một dịp nào đó. 

Tài liệu dẫn

1. Journal Asiatique, janvier-février 1903, p. 109-150.

2. M. Aymonier doit beaucoup au Voyage ďexploration en Indo-Chine; par inadver tance,il a oublié d’avertir, que partout où il n’indique pas d’autre référence, il faut se reporter au monumental travail de Francis Gamier.

3. M. Aymonier doit faire allusion à une phrase de M. de Rosny dans Les peuples orientaux connus des anciens Chinois, p. 189, mais il la dénature en la généralisant.

4. Cf. Legge, Chinese Classics, III. II. 536-537.

5. Cf. 欽定越史通鑑綱目 Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Tiền biên, I. 3-4.

6. loc. laud.

7. C’est tout à fuit à tort que le Cương mục annamite {k. l, t. (i) cherche ici à se couvrir de l’autorité du Che ki.

8. Legge, dans son historique de cette tradition, parait avoir oublié le passage des Annales écrites sur bambou ffue lui-mime avait traduit ailleurs (Chinese Classics, J, i, Prolégomènes, p. 146).

9. Legge, loc. laud., p. 536 ; il y a une inexactitude dans la traduction à propos des noms du Lin-yi (Champa) et du Fou-nan.

10. (XVVylie, Notes on Chinese literature, p. 128.

11. к. 20, p. 16. L’Histoire des Song antérieurs a été compilée par 沈約 Thẩm Ước(141-513).

12. Cf. la trad, du P. de Mailla dans Y Histoire générale de la Chine, 1. 316-318. Le V. de Mailla n’a pas reconnu le nom du Lin-yi.

  1. 欽定越史通鑑綱目 Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, I. fi ; Des Michels, Annales impériales de VAnnam, p. 8.

14. Francis (iarniei1, Voyage ď exploration en Indo-Chine., I. i 13.

15. Ce pays n’est pas identifié.

III. Bộ chính sử của những triều đại sớm có một phần riêng ghi về Phù Nam là Tấn thư [nhà Tấn kéo dài từ 265 – 410 SCN]. Người biên soạn Tấn thư là 房玄齡 Phòng Huyền Linh [sống qua các thời Nam Bắc Triều – Tùy – Đường 578-648]. Dưới đây là một số sự kiện rải rác trong các Biên niên sử chủ yếu:

K. 3, tr. 4. Năm 泰始 Thái Thủy thứ tư (268), “Phù Nam và Lâm Ấp gửi sứ bộ triều cống”.

K. 3, tr. 10. Năm 太康 Thái Khang thứ sáu (285) “mùa hạ, tháng Tư [1] lục quốc, trong đó có Phù Nam gửi sứ bộ triều cống”.

K. 3, tr. 10. Năm 太康 Thái Khang thứ bảy (286) “21 nước, có cả Phù Nam và 11 nước, cùng 馬韓 Mã Hàn [2] gửi sứ bộ đến triều cống”.

K. 3, tr. 10. Năm 太康 Thái Khang thứ tám (287) “Phù Nam, các rợ Hải Nam quốc và rợ Tây Nhung 康居 Khang Cư [Sogdian] [3] đều gửi sứ bộ đến triều cống”.

K. 8, tr. 昇平 Thăng Bình Nguyên niên (357), tháng Giêng,  “扶南天竺旃檀 Phù Nam Thiên Trúc Chiên Đàn) [4] dâng voi nhà làm cống vật. Hoàng đế truyền chiếu: “Các đời hoàng đế xưa vẫn thường coi thú lạ từ các đất nước xa xôi là cội nguồn gây ra đau khổ cho người dân, nên đã cấm, vì vậy ngày nay mới không có các loài thú lạ ở đây; truyền đưa chúng trở về bản quán”**.

Đoạn giành riêng cho Phù Nam** (k.97, tr.7 vo) viết: Phù Nam cách Lâm Ấp trên ba ngàn dặm, nằm trong một vịnh biển lớn, chiều dài, chiều rộng ước ba ngàn dặm, có thành ấp, cung điện, nhà cửa. Hết thảy chúng nhân nước đó đều đen xấu, tóc quăn, ở trần, chân đất; tính người thẳng thắn, không trộm cắp, chuyên tâm trồng cấy; gieo một năm, gặt ba năm. Họ cũng rất thích điêu khắc, chạm trổ; đồ dùng trong ăn uống hầu hết làm bằng bạc; vật phẩm cống phú thì dâng vàng, bạc, ngọc trai, trầm hương. Họ cũng có kho phủ xử lý, lưu trữ sách vở, văn thư [5]. Chữ viết họ dùng tương tự như chữ của người Hồ [6]. Lễ thức tang ma, cưới xin đại để giống Lâm Ấp. Quốc chủ nước ấy vốn là một nữ tử tên 葉柳 Diệp Liễu [7]. Khi ấy có một người ngoại quốc tên 混潰 Hỗn Hội [8], trước thờ thần [9], mộng thấy thần linh trao cho cây cung, lại truyền phép đi thuyền ra biển. Ngày nọ Hỗn Hội đến viếng đền, quả được cung thần, thuận lòng theo thương thuyền lênh đênh biển cả, rồi cập bến đất lạ Phù Nam [10]. Diệp Liễu kéo người ra chống cự. Hỗn Hội giương cung, Diệp Liễu sợ nể, bèn thuận lòng tuân phục. Vì vậy Hỗn Hội bèn lấy làm vợ, và có được nước đó. Đời sau suy vi, con cháu không kế nghiệp được, viên tướng của ông là 范尋 Phạm Tầm tự lập làm vua Phù Nam vậy. Kịp đến niên hiệu Thái Thủy năm 265 (晉武帝 Tấn Vũ Đế) Phù Nam đã sai sứ sang dâng cống vật. Từ thời 太康Thái Khang (280-289) lại càng thường xuyên hơn. Đầu năm 昇平 Thăng Bình (357) thời 穆帝 Mục đế, 竺旃檀 Trúc Chiên Đàn lên làm vua [11], đã sai sứ sang cống voi nhà. Nhân đó Mục đế truyền rằng xứ sở nào muông thú nấy, cống thú làm cho người dân khổ sở, bèn truyền chiếu trả về”**.

Ở k.57 Tấn thư có chép truyện 陶璜 Đào Hoàng, ông vốn là thứ sử Giao Châu thời nhà Ngô và vẫn tiếp tục làm châu mục sau khi nhà Ngô sụp đổ và nhà Tấn chiến thắng (280). Vào thời gian này, toàn bộ đế chế đã trở nên thanh bình hơn, nên Hoàng đế muốn giảm bớt các chi tiêu quân sự. Sau đó Đào Hoàng dâng biểu trình bày: không nên giải giáp đội quân dưới quyền ông ở Giao Châu, vốn ban đầu có hơn 7000 người, sống ở nơi lam chướng lại thêm nhiều năm chinh chiến, đến nay chỉ còn lại 2420 người. Hơn nữa “Giao Châu ở trơ trọi một nơi, liền núi sát biển, cách nước Lâm Ấp ở ngoài chỉ độ 700 dặm. Tướng người Di ở Lâm Ấp là 范熊Phạm Hùng, suốt đời làm kẻ cướp lẩn lút…Hắn lại còn kết giao với Phù Nam là giặc cướp phá các quận huyện, giết hại quan dân”. Đoạn này được trích trong sách Cương mục của người An Nam (k.3, p.15 vo).***

IV. Tống thư giai đoạn đầu nhà Tống (420 – 478) do 沈約 Thẩm Ước [441-513] biên soạn. 

K. 5, p. 5 r°, Năm 元嘉 Nguyên Gia thứ mười một (434), “các nước Lâm Ấp, Phù Nam và 訶羅單 Ha La Đan [12] gửi sứ bộ đến hiến phương vật”.

K. 5, p. 5 v°. Năm 元嘉 Nguyên Gia thứ mười hai (435), ngày 己酉 Kỷ Dậu, nước闍婆婆達 Đồ Bà Bà Đạt [13] và Phù Nam gửi sứ bộ đến hiến phương vật”.

K. 5, p. 6 r°. Năm 元嘉 Nguyên Gia thứ mười lăm (435), “các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Phù Nam, Lâm Ấp gửi sứ bộ đến hiến phương vật”.

Trong chương 夷蠻 Di man Tống thư, Quyển cửu thập thất Liệt truyện, Đệ ngũ thập thất có đoạn viết: 扶南國,太祖元嘉十一,十二,十五年,國王持黎跋摩遣使奉獻。Nước Phù Nam, đời Thái tổ năm Nguyên Gia thứ 11, 12, và 15, quốc vương Trì Lê Bạt Ma sai sứ phụng hiến phương vật. Ở chương Lâm Ấp (K.97, p.1) có viết vào năm 432 hoặc 434 “Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu, và mượn quân của Phù Nam, nhưng Phù Nam không ưng thuận”****.

Ở đây cần phải nhắc lại một bài hát của 張華 Trương Hoa (232-300) ở K.20, trong đó có viết: “Phù Nam sử dụng rất nhiều người phiên dịch và sứ bộ 肅愼 Túc Thận thì phải mượn quần áo”.

V. Sách 南齊書 Nam Tề thư (479 – 501) có phần K.58, p.4 với một đoạn dài viết về Phù Nam nói về lời khải bạch quan trọng của vua Jayavarman dâng lên Hoàng đế Trung Quốc*****.  Bộ sách này do 蕭子顯 Tiêu Tử Hiển biên soạn vào đầu thế kỷ VI SCN.

Nước Phù Nam nằm ở phía nam quận Nhật Nam, trong một vịnh biển lớn phía tây [14]. Chiều rộng hơn ba ngàn dặm***.  Có một con sông lớn chảy từ tây sang đông đổ ra biển [15]. Xưa kia nước này có một nữ quốc chủ tên là 柳葉 Liễu Diệp. Sau đó có một người đàn ông người nước 激 Kích [16], tên là 混填 Hỗn Điền mộng thấy thần linh cho hai*** chiếc cung [17] và lệnh cho ông lên thuyền vượt biển ra đi. Vào một buổi sáng, Hỗn Điền đến ngôi đền thờ thần và ông phát hiện ra chiếc cung dưới một gốc cây. Được cung thần, ông lên thuyền nhắm hướng Phù Nam. Liễu Diệp thấy thuyền lạ nên đưa lính ra kháng cự. Nhưng từ xa Hỗn Điền đã giương cung lên bắn, mũi tên xuyên qua vách thuyền, trúng một người. Liễu Diệp sợ hãi, chịu quy phục. Hỗn Điền cưới nàng làm vợ. Không vui vì thấy nàng lõa thể, Hỗn Điền đã dùng chiếc khăn của mình choàng kín người nàng. Sau đó Hỗn Điền trị vì vương quốc ấy. Con cháu Hỗn Điền thừa kế ngai vàng cho đến khi vua 混盤況 Hỗn Bàn Huống qua đời. Người trong nước ấy bèn đưa vị đại tướng của ông là范師蔓 Phạm Sư Mạn lên ngôi. Phạm Sư Mạn bị ốm. Con trai của người chị gái cả là 旃慕 Chiên Mộ [18] thừa kế ngai vàng, và đã giết chết người con trai cả của Phạm Sư Mạn là 金生 Kim Sinh. Mười năm sau, người con trai út của Phạm Sư Mạn là 長 Trường, đã nổi loạn và đã dùng dao đâm vào bụng Chiên Mộ cho đến chết và nói: “Ngươi đã giết chết anh trai ta, giờ đây, ta giết ngươi để trả thù cho anh trai ta”. Sau đó viên đại tướng 范尋 Phạm Tầm đã giết chết Trường. Người dân trong nước tôn ông lên làm vua. Những sự kiện này xảy ra dưới thời nhà Ngô (222-280) và Tấn (265 – 419).

__________________________________________

Nguồn: Paul Pelliot 1903. Le Fou-nan, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 3, 1903. pp. 248-303.

Tác giả: Paul Pelliot (1878 – 1945) là nhà Hán học nổi tiếng người Pháp, học trò của Sylvain Lévi và Édouard Chavannes. Ông làm việc tại Viện Viễn đông Bác cổ – École Frnaҫaise d’Extrême Orient tại Hà Nội, và năm 1900 ông đã được gửi đi Bắc Kinh tìm kiếm sách cho thư viện của Viện. Thời gian ở Bắc Kinh ông đã bị bắt giữ trong Phong trào 義和團 Nghĩa Hòa Đoàn, và bị kẹt trong thời gian phong tỏa các tòa công sứ ngoại quốc.  Pelliot đã thực hiện hai vụ đột phá lãnh thổ đối phương trong thời gian bị phong tỏa. Vì hành động dũng cảm đó, ông đã được thưởng huân chương cao quý nhất Bắc đẩu Bội tinh của Cộng hòa Pháp. Năm 22 tuổi ông trở về Hà Nội và nhận ghế giáo sư Hán học tại Viện, sau đó trở thành giáo sư Hán học tại Collège de France, là nơi tập trung những học giả lỗi lạc và danh giá nhất của nước Pháp.
Ghi chú của người dịch:

** Nguyên văn đoạn này trong Tấn thư, Liệt truyện của Phòng Huyền Linh:

扶南西去林邑三千餘裡,在海大灣中,其境廣袤三千里,有城邑宮室。人皆醜黑捲髮,裸身跣行。性質直,不為寇盜,以耕種為務,一歲種,三歲穫。又好雕文刻鏤,食器多以銀為之,貢賦以金銀珠香。亦有書記府庫,文字有類於胡。喪葬婚姻略同林邑。其王本是女子,字葉柳。時有外國人混潰者,先事神,夢神賜之弓,又教載舶入海。混潰旦詣神祠,得弓,遂隨賈人汎海至扶南外邑。葉柳率眾禦之,混潰舉弓,葉柳懼,遂降之。於是混潰納以為妻,而據其國。後胤衰微,子孫不紹,其將範尋復世王扶南矣。武帝泰始初,遣使貢獻。太康中,又頻來。穆帝昇平初,復有竺旃檀稱王,遣使貢馴象。帝以殊方異獸,恐為人患,詔還之。

*** Nguyên văn đoạn này trong Tấn thư, Liệt truyện của Phòng Huyền Linh:

吳既平,普減州郡兵,璜上言曰:「交土荒裔,斗絕一方,或重譯而言,連帶山海。又南郡去州海行千有餘里,外距林邑纔七百里。夷帥范熊世為逋寇,自稱為王,數攻百姓。且連接扶南,種類猥多,朋黨相倚,負險不賔。往隸吳時,數作寇逆,攻破郡縣,殺害長吏。臣以尪駑,昔為故國所採,偏戍在南,十有餘年。雖前後征討,翦其魁桀,深山僻穴,尚有逋竄。又臣所統之卒本七千餘人,南土溫溼,多有氣毒,加累年征討,死亡減秏,其見在者二千四百二十人。今四海混同,無思不服,當卷甲消刃,禮樂是務。而此州之人,識義者寡,厭其安樂,好為禍亂。又廣州南岸,周旋六千餘里,不賔屬者乃五萬餘戶,及桂林不羈之輩,復當萬戶。至於服從官役,纔五千餘家。二州脣齒,唯兵是鎮。

**** Nguyên văn Tống thư, Quyển cửu thập thất Liệt truyện, Đệ ngũ thập thất:

南夷林邑國,高祖永初二年,林邑王范陽邁遣使貢獻,卽加除授。太祖元嘉初,侵暴日南,九德諸郡,交州刺史杜弘文建牙聚衆欲討之,聞有代,乃止。七年,陽邁遣使自陳與交州不睦,求蒙恕宥。八年,又遣樓船百餘寇九德,入四會浦口,交州刺史阮彌之遣隊主相道生三千人討,攻區粟城不剋,引還。林邑欲伐交州,借兵於扶南王,扶南不從。十年,陽邁遣使上表獻方物,求領交州,詔答以道遠,不許。十二,十五,十六,十八年,頻遣貢獻,而寇盜不已,所貢亦陋薄。

*****Trong tiếng Phạn cổ thì चन्द्र Candra có nhiều nghĩa như: mặt trăng, nước, số một, vàng, cây long não, …v.v; còn từ छन्दन* Chandana thì có nghĩa là hấp dẫn, làm say mê, có phép thuật, …v.v.

Tài liệu dẫn

1. Đây là ngày tháng mà các sứ bộ được yết kiến Hoàng đế.

2. Văn bản của các sử gia mà tôi dẫn ra ở đây được lấy từ ấn bản của  được công bố năm 1888 tại Thượng Hải có đề cập đến bài học 馬韋 Mã Vi; Nhưng chắc đây là sự nhầm lẫn trong ấn loát. Trong thực tế tôi không thấy có nước nào tên gọi Mã Vi; thay vào đó, chỉ có thể là 馬韓, được xác định chắc chắn là Triều Tiên. Ở một đoạn khác, k.97, tr.2 cho biết năm Thái Khang (286) Mã Hàn đã gửi sứ bộ đến triều đình Tấn Vũ Đế.

3. Sogdiane.

4. Ông S. Levi khi xem xét đoạn này trong Mélanges Charles de Harlez, Leyde, in-4°, p. 176 et ss., đã có nhận xét là cần phải: i) coi 旃檀 tchan-ťan chiên đàn là tước vị của vua Ấn Độ; ii) đến lượt चीनस्तान* cīnasthāna [vùng đất Trung Quốc*] được sử dụng tương tự như देवपुत्र* devaputra [thiên tử] là một tước vị của các hoàng tử Indo-Scythian. Tôi thấy khó có thể chấp nhận cả hai giả thiết này.

Liên quan đến các văn bản khác có đề cập đến sứ bộ năm 昇平 Thăng Bình Nguyên niên (357) chúng ta có thể thấy rằng trong thực tế không bao giờ có vấn đề về một sứ bộ của Ấn Độ đến Trung Quốc. Đoạn đầu tiên liên quan đến ghi chú này, thì lại hơi mơ hồ, vì nó đặt kề bên nhau mà không hề xác định các yếu tố liên quan: Phù Nam + Thiên Trúc + Chiên Đàn, mà rất lạ là nếu chúng ta nghe thấy “Phù Nam và Chiên Đàn của Thiên Trúc (có nghĩa là Ấn Độ) thì hai từ này lại hoàn toàn đi liền với nhau mà không cần một từ nối 及 cập “và” để đối lập mối tương quan giữa Thiên Trúc và Chiên Đàn theo cách xếp đặt đơn giản Phù Nam và Thiên Trúc. Nếu không có bất cứ từ nối nào thì phải hiểu rằng Chiên Đàn của Thiên Trúc của Phù Nam. Liệu có tồn tại một cái tên như vậy không? Điều này có lẽ rất đơn giản vì đó là một người Ấn Độ có tên Chiên Đàn sống ở Phù Nam. Ở đây văn bản cũng nói là Thiên Trúc Chiên Đàn, nhưng ở một đoạn khác (văn bản 111 chữ nhỏ, văn bản VI) lại chỉ viết竺旃檀 Chúc Chiên Đàn. Vậy thì giờ đây rõ ràng việc đặt một tước hiệu là tên thị tộc trước tên riêng của một người chính là thói quen của Trung Quốc – còn đối với một người nước ngoài thì điều đó cũng có đôi chút khó hiểu. Cái tên Indo-Scythian của người có tên họ là 支 (được tạo thành từ cái tên 月支 Nguyệt Chi) người Ấn Độ có tên họ là 竺 Trúc (được tạo thành từ cái tên 天竺 Thiên Trúc), người Sogdiane có tên họ 康 Khang (được tạo thành từ cái tên 康居 Khang Cư Sogdiane) cũng đã đủ rõ ràng để chứng minh và không cần phải nhắc đi nhắc lại thêm nữa. Tương tự như vậy, ở Phù Nam, chúng tôi phát hiện thấy vào năm 517 có một vị sứ bộ tên là Trúc Tang Pao Lao. Tương tự như vậy là 竺那婆智 Trúc Na Bà Trí năm 456, 竺須羅達 Trúc Tu La Đạt năm 466 đã được vua Đông Dương 婆皇Bà Hoàng cử đi sứ Trung Quốc. Thực ra thì ông M. Schlegel (Toung pao, 1, x, p. 39-40) đã khôi phục lại không phải là một từ xa lạ cho âm Trúc một cách phát âm không chắc chắn là Da, có lẽ là một tước vị của người Malayo-Polynesian, nhưng đã không cho chúng ta biết tại sao ông lại phản đối cách phát âm cổ mà không gợi ý các phương ngữ cho từ jou-cheng, cụ thể là tchok hoặc tok (竺 trúc là phiên âm âm tiết đầu của ताक्षशिल* Takṣaçila, Kinh đô của vương quốc गन्धार Gandhara*) không thể tính đến cho giả thuyết của ông. Vì vậy tôi nghĩ là một người Ấn Độ (Trúc) có tên là Chantan [Chiên Đàn]. Các văn bản đều không đề cập đến điều đó của Phù Nam.  Ông Lévi đã dẫn một đoạn về Ấn Độ trong Tou chou tsi tch’eng, trong đó Annales principal đã được sửa đổi bằng cách bỏ cái tên Phù Nam đi, mà theo ông thì có một thực tế không thể chối cãi là những người biên soạn bộ Tou chou tsi tch’eng đã được thấy sứ bộ Ấn Độ. Nhưng rõ ràng là Tou chou tsi tch’eng được soạn vào thế kỷ XVII,  và những người biên soạn đã cắt xén những đoạn chính của Annals để lưu trữ bằng rất nhiều tên gọi mà không đưa ra các phê phán sử liệu của riêng họ; có thể đưa ra rất nhiều ví dụ: họ không hề đối sánh thông tin từ các bản gốc của Biên niên sử trong các phần viết riêng về Phù Nam, và đã mắc phải mâu thuẫn.  Không nghi ngờ gì rằng những đoạn viết về Phù Nam đã không coi viên sứ bộ Trúc Chiên Đàn là người Phù Nam; khi nói đến các sứ bộ của nước này, văn bản III (chữ nhỏ) viết: “Đầu niên hiệu 昇平 Thăng Bình (từ 357 và sau đó) Mục đế đã phong tước vương cho một Trúc Chiên Đàn mới, và Phù Nam vương đã gửi sứ bộ đến cống voi đã thuần hóa”. Cũng văn bản đó có kê tên các sứ bộ Phù Nam và viết rằng năm 昇平 Thăng Bình (357) “vua Trúc Chiên Đàn dâng khẩn biểu và gửi sứ bộ sang cống voi đã thuần hóa”. Không thấy bất cứ chỗ nào nói đến sứ bộ Ấn Độ sang triều cống; hoàng tử hoặc ngụy danh, kẻ tiếm ngôi hoặc nhà vua chính trực, Chiên Đàn Ấn Độ, người có cái tên đầu là चन्द्र*Candra cũng như छन्दन*Candana, có lẽ đều sống ở Phù Nam.

Tôi cho rằng nếu như trong trường hợp này Chiên Đàn là một tước vị thì tôi hoàn toàn không tin rằng cần phải coi đó như là देवपुत्र* devaputra [thiên tử], chí ít là theo cách ông Sylvain Lévi đề xuất. Luận điểm của ông Sylvain Lévi là như sau: “Hoàng đế Trung Quốc được gọi là 天子 Con Trời và khoa nghiên cứu bi ký thì xác định đó là bắt chước các vua Indo-Scythian gọi là देवपुत्र* devaputra [con của thần linh]. Mặt khác, trong một số tích truyện được dịch từ tiếng Phạn sáng tiếng Hán thì cái tên कनिष्क* Kanishka* đứng trước 旃檀 Chiên Đàn hoặc 眞檀 Chân Đàn, phải là một tước vị. Ngày nay Chiên Đàn lại để thể hiện चीनस्तान* Cīnasthāna, tức là Trung Quốc. Nhưng mặt khác, về nguyên tắc ngữ pháp tiếng Phạn thì trong trường hợp này chúng ta có thể sử dụng cho quốc chủ cái tên của nước đó; vì vậyचीनस्तान* Cīnasthāna cũng có nghĩa là Hoàng đế Trung Quốc. Nhưng Hoàng đế Trung Quốc là Con trời, và vì vậy mà 旃檀 Chiên Đàn hoặc 眞檀 Chân Đàn thể hiện cho Cīnasthāna và do đó có thể xác định là Hoàng đế Trung Quốc, kẻ xem mình là Con trời, thì देवपुत्र* devaputra [con của thần linh] đã được sử dụng từ tương tựdevaputra trong nghi thức của các vua Indo-Scythian. Nếu cách giải thích này là chính xác thì người Ấn Độ là một dân tộc quả là tinh tế. Nhưng điểm xuất phát thì lại rất có vấn đề. 旃檀 Chiên Đàn có thể đại diện cho Cīnasthāna, nhưng cũng còn có thể đại diện cho một cái gì khác, và trong thực tế luôn luôn được phiên âm làछन्दन* Candana. Không đặt nặng vào những cách phiên âm truyền thống, rất cần phải lưu ý rằng không phải Cīnasthāna luôn luôn được dịch là 眞丹 Chân Đan hoặc震旦 Chấn Đán. Hơn nữa không phải là tôi không muốn nói những gì trái ngược với uy tín của ông Lévi, thì từ “Cīnasthāna” có vẻ vẫn khó để được coi là nói về Hoàng đế Trung Quốc, hơn là để xác định cho từ “Cīna”. Nhưng dường như tôi cũng thấy không có lý do gì để loại trừ khả năng về một từ tương đương thứ ba vẫn chưa được biết, mà tước vị ấy được chính các vua Indo-Scythian sử dụng lại là của chủng tộc này. Bản dịch bộ kinh mà ông Lévi đã dẫn, Sutralamkara 大乗荘厳経論Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận của अश्वघोष* Asvaghosa Mã Minh có lẽ thuộc về bộ Mātṛceta trong Tandjour [Kinh] bằng tiếng Tây Tạng; trong trường hợp này thì vấn đề vẫn không giải quyết được. Trong khi đó, tôi chú ý đến một cách sử dụng khác cũng với đầu đề đó, được áp dụng cho Hoàng đế कनिष्क* Kaniska, trong bộ 僧伽羅剎所集經 Tăng Già La Sát Sở Tập Kinh (Tripit. jap. 藏 VII, 94; Nanjio, no 1352); ở đây có đề cập đến một vấn đề là 700 năm sau khi nhập niết bàn, Sangharaksa nguyên là người सौराष्ट्र * Surāstra, đã đến毽陀越 Kiến Đà Việt (Gandhàra) với vua 甄陀罽貳 Chân Đà Kế Nhị (Tchen-t’o Kanaka). Chúng ta thấy rằng trong thời gian này, tước vị ấy khác xa cách phiên âm thông thường của từ Cīnasthāna. Tước vị Chiên Đàn dường như đã tồn tại đủ dài nếu đó chính là ông thì ông đã phải tìm lại được trong 栴檀忽哩 Chiên Đàn Hốt Lý của Wou-k’ong (J.A. sept.-oct. 1895, p. 356).

5. 府庫 Phủ Khố doit indiquer toute sorte de dépôts et de magasins, et non pas seulement des bibliothèques.

6. Les Hou sont proprement les gens d’Asie centrale, mais toute écriture apparentée aux alphabets de l’Inde rentre aussi en gros dans les écritures Hou.

7. Ye-lieou est sans doute fautif pour I.ieoii-ye, « Feuille de saule », que donnent pres que tous les textes.

8. 混潰 Hỗn Hội parait fautif pour 混滇 Hỗn Điền, correspondant au 混填 Hỗn Điền des autres textes.

9. En pins de son sens naturel, l’expression事神 Sự Thần sort souvent à désigner le »:ulte brahmanique, par abřévation de 事天神 Sự Thiên Thần.

10.  扶南外邑 Phù Nam Ngoại Ấp. J’entends qu’il arriva par eau aux faubourgs de la capitale qui bordaient la rive.

11. 稱王. Xứng Vương.

12. Pays hindouisé de l’Inde Transgangétique, d’identification incertaine.

13. 1-е nom de ce pays hindouisé est óciit  闍婆婆達 Đồ Bà Bà Đạt k. U7, p. 3 v«, et, dans le 南史 Nam Sử (k. 78, p. G). 闍婆達 Đồ Bà Đạt. Il n’y a pas en core d’identification probable.

14. Le texte du 南史 Nam sử thư donne 蠻 man, barbares du Sud, et non 灣 Loan, baie. Il n’est pas douteux que ce soit une faule.

15. Văn bản này viết: 西流入海 Tây lưu nhập hải. Cách dịch thông thường nhất sẽ là: “dòng sông chảy về phía tây và đổ ra biển”. Nghĩa của hai từ 西流 tây lưu [chảy về phía tây] này chúng ta sẽ xem xét sau [văn bản số 10]. Nhưng đoạn tương tự trong Lương thư (xem ở dưới) 西北流東入在海 Tây bắc lưu đông nhập tại hải, thì nghĩa lại có vẻ nước đôi, và phải được dịch một cách rõ ràng là “[con sông] chảy từ phía tây bắc và theo hướng đông chảy ra biển”. Vậy là một cái tên của đoạn chính trước từ 流 chảy, nếu cần, có thể được sử dụng theo nghĩa nơi con sông chảy về. Đoạn dịch có vẻ bất bình thường khó mà áp dụng vào trường hợp này được. Tôi không thấy cách đặt câu này là để bắt buộc phải giải thích rằng với người Trung Quốc thì biển là ở phía đông, nên không thể nghĩ rằng một con sông nào đó lại có thể chảy về phía tây mà lại đổ ra biển được. Có nhiều câu trong tiếng Hán nổi tiếng là nước đôi. Cần nhớ rằng trong Thủy kinh có viết: “Con sông Kính đổ vào sông Vị thì trở nên đục” [Nguyên văn đoạn này trong Thiên Vũ cống của sách Thượng thư ghi như sau: 黑水到西河之間是雍州:弱水疏通已向西流,涇河流入渭河之灣,漆沮水已經會合洛水流入黃河,灃水也向北流同渭河會合 – Hắc thủy đáo Tây hà chi gian thị Ung châu: Nhược thủy sơ thông dĩ hướng tây lưu, Kính hà lưu nhập Vị hà chi loan, tất tự thủy dĩ kinh hội hợp Lạc thủy lưu nhập Hoàng hà, Phòng thủy dã hướng bắc lưu đồng vị hà hội hợp- Hà Hữu Nga ghi chú]; ở đây chúng ta phân biệt theo nghĩa, một số người cho rằng sông Vị làm đục sông Kính, còn một số khác thì lại cho rằng nước đục của sông Kính được thể hiện rõ bởi nước trong của sông Vị, và hoàng đế đã phải cử người đến để phân giải vấn đề này.

16. Je ne connais pas de pays de 激國 Kích quốc; Y Histoire des Leang (texte VI) donne 徼 Kiểu, qui ne va pas mieux, à moins qu’on n’entende 徼国 Kiểu quốc au sens de 徼外諸国 Kiếu ngoại chư quốc, «les royaumes de l’extrême lointain», mais cette interprétation me parait forcée.

17. “Deux” 二 doit être fautif pour  “un” 一. La suite du texte ne parle plus de deux arcs.

18. Le texte porte en effet Tchan-mou, mais comme plus loin le personnage est appeléseulement Tchan, il est évident qu’il faut, avec le Leang chou, corriger en 旃慕 Chiên Mộ. «Tchan par usurpation…

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tác giả Paul Pelliot

Theo nghiencuulichsu