Sách sử Trung Hoa có ghi chép nhiều về cộng đồng tộc Việt, cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quan trọng về tộc Việt, tuy nhiên không phải tài liệu nào của họ cũng thể hiện thái độ khách quan, và ghi lại chính xác sự thực về cộng đồng tộc Việt. Các sử gia Trung Quốc thường chịu ảnh hưởng khá lớn của hệ tư tưởng “văn minh – man di”, theo đó họ cho rằng người Hoa Hạ là giống người có văn minh, cư dân phía Nam và phía Đông, hay chính là cộng đồng tộc Việt là các dân tộc không có văn minh. Tư tưởng này không chỉ ảnh hưởng rõ rệt trong sử sách Trung Hoa, mà còn gây ra những ảnh hưởng khá tiêu cực cho tới ngày nay, khi nhiều người tìm hiểu về cộng đồng tộc Việt qua lịch sử Trung Hoa đã chấp nhận ý tưởng về “văn minh – man di” trong sách vở của người Hoa Hạ.
Chính vì vậy, để hiểu về lịch sử của cộng đồng tộc Việt, chúng ta rất cần một tinh thần khách quan và cần có một bộ lọc thông tin để có thể nhận diện được những chi tiết có tính tham khảo trong cổ sử Trung Hoa, bên cạnh đó chúng ta cần sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp các tài liệu lịch sử đối chiếu, so sánh với các tài liệu di truyền, khảo cổ, nhân chủng, văn hóa học, để từ đó tìm được những thông tin chính xác nguồn gốc dân tộc mình, nhận diện được lịch sử thực sự của cộng đồng tộc Việt, sự liên hệ của người Việt và cộng đồng tộc Việt trong lịch sử.
Ở bài viết này, chúng tôi sẽ đi qua một số vấn đề để xác định sự liên hệ và quá trình tương tác của các cư dân tộc Việt với người Việt tại miền Bắc Việt Nam. Trong bài viết chúng tôi sẽ sử dụng cả hai khái niệm Bách Việt và cộng đồng tộc Việt, tuy nhiên chúng tôi mong muốn đề xuất tới bạn đọc về việc sử dụng khái niệm “tộc Việt”, hạn chế sử dụng khái niệm Bách Việt, “tộc Việt” là khái niệm thể hiện chính xác hơn về sự liên hệ và thống nhất trong lịch sử của cộng đồng tộc Việt.
I. Lịch sử Trung Hoa về người Bách Việt:
1. Các tài liệu ghi chép về tên gọi của người Việt:
Về tên gọi cộng đồng tộc Việt, thì qua nhiều giai đoạn, sử sách của người Hoa Hạ gọi người Việt dưới những cái tên khác nhau: – Nhà Hạ gọi cộng đồng người Việt là Vu Việt 于越; – Nhà Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越.; – Tới thời Chu thì tên Dương Việt 扬越 được người Hoa Hạ sử dụng để gọi cộng đồng tộc Việt [1]. Phải tới thời Tần khái niệm Bách Việt mới bắt đầu được sử dụng để chỉ cộng đồng tộc Việt.
Khái niệm Bách Việt lần đầu tiên xuất hiện trong sách Lã Thị Xuân Thu đời Tần, do Lã Bất Vy biên soạn: “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là “phía nam đất Hán là đất Bách Việt.”. Sau đó khái niệm Bách Việt xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm Sử Ký của Tư Mã Thiên, và kể từ đó, các sách vở Trung Hoa và sau này là các tài liệu Việt Nam, phương Tây chép về cộng đồng tộc Việt đều dựa trên khái niệm Bách Việt.
Chúng ta cần chú ý một chi tiết, là thời điểm xuất hiện khái niệm Bách Việt, cũng chính là thời điểm nhà Tần chuẩn bị tổ chức quân đội xuống đánh Bách Việt, hai sự kiện đồng thời này có thể có tính liên kết, không phải ngẫu nhiên mà khái niệm này xuất hiện. Thời điểm xuất hiện Sử Ký của Tư Mã Thiên, cũng là thời kỳ người Hán chiếm trọn được đất đai của tộc Việt, và bắt đầu thực hiện chính sách cai trị, đồng hóa cộng đồng tộc Việt, cũng đồng thời khái niệm này được thúc đẩy sử dụng trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. Hẳn là các tác giả sách Lã Thị Xuân Thu và Sử Ký đã có có sẵn cho mình một mục đích khi sáng tạo và sử dụng khái niệm này trong ghi chép của mình. Chữ “Bách” trong “Bách Việt” đã trực tiếp ảnh hưởng tới nhận định về cộng đồng này, khiến nhiều sử gia, nhà nghiên cứu, hay bản thân người Việt và các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt ngày nay cho rằng cộng đồng Bách Việt là một cộng đồng rời rạc, không có quốc gia chung, không có sự liên hệ và thống nhất về mặt văn hóa, và là một cộng đồng không có văn minh, nên việc người Hán xâm chiếm đất Bách Việt được xem như tiến vào nơi không có chủ quyền, là một hành động có ý nghĩa khai hoá văn minh của người Hoa Hạ với người Việt, tương tự như tư tưởng người phương Tây tự ban cho mình nghĩa vụ khai hóa văn minh các dân tộc thuộc địa trên khắp thế giới. Tuy nhiên chính sử sách Trung Hoa cũng thể hiện một cách nhìn nhận khác về cộng đồng tộc Việt với các tài liệu mà chúng tôi sẽ dẫn ra ngay sau đây.
2. Lịch sử Trung Hoa ghi chép về cộng đồng tộc Việt:
Sách sử Trung Quốc ghi chép khá nhiều về cộng đồng tộc Việt, ở phần này chúng tôi sẽ tiến hành tìm kiếm, tổng hợp phân tích những tài liệu thể hiện rõ nhất những yếu tố lịch sử về cộng đồng tộc Việt.
Sách Hán thư, Địa lý chí chép: “粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。” – “Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: “Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang.”
Đoạn trích này cho chúng ta thấy từ Giao Chỉ tới Cối Kê là nơi sinh sống của người Bách Việt, các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam là đất Việt xưa, tuy nhiên địa bàn sinh sống của người Việt còn xa hơn thế, tới hồ Động Đình, vùng Vân Nam, Quý Châu và cả vùng Chiết Giang, Phúc Kiến, tương ứng với “từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê”. Việc tác giả sách Hán Thư cho rằng người Việt có quân trưởng là dòng dõi của vua Vũ là không phù hợp, dòng dõi của vua Vũ chỉ tồn tại ở nước Việt, có hậu duệ là Câu Tiễn sau này.
Trong phần chú của sách Hán thư, Sư Cổ cho rằng: “師古曰「越之為號其來尚矣少康封庶子以主禹祠君於越地耳。故此志云其君禹後豈謂百越之人皆禹苗裔瓚說非也。」” – “Sư Cổ nói: “Vua nước Việt xưng hiệu đã từ lâu rồi, vua Thiếu Khang phong con thứ để lo việc thờ cúng vua Vũ, làm vua ở đất Việt vậy. Cho nên phần chí này nói quân trưởng của đất này là dòng dõi của vua Vũ, há phải là nói người Bách Việt đều là dòng dõi của vua Vũ đâu? Toản nói sai vậy.”.
Như vậy sử gia Trung Quốc cũng phủ nhận quan điểm cho rằng Bách Việt là dòng dõi của vua Vũ, các tài liệu khảo cổ, lịch sử và văn hóa cũng phủ nhận quan điểm được thể hiện trong sách Hán thư. Người Bách Việt phát triển hoàn toàn độc lập và không có quan hệ huyết thống gì với nhà Hạ ở phía Bắc sông Dương Tử.
Sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801), phần Châu quận chép: “自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地” – “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường – Ngu, Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt .”. Sách này chú thêm: “或曰自交趾至於會稽七八千里,百越雜處,各有種姓.” – “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi, mỗi nơi đều có một chủng tính.”
Qua đoạn trích từ sách Thông Điển, chúng ta nhận diện được hai thông tin quan trọng: thứ nhất là ở vùng phía Nam Dương Tử, từ Cối Kê tới Giao Chỉ, là nơi sinh sống của người Bách Việt, có nghĩa miền Bắc Việt Nam cũng trực tiếp thuộc cộng đồng này. Thứ hai, là người Bách Việt có một quốc gia chung, ngang với thời Đường – Ngu, tức khoảng hơn 4000 năm trước.
Các đoạn trích từ hai sách chúng tôi dẫn ra: “đều có nhánh họ“, “mỗi nơi đều có một chủng tính” thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng của lối mòn nhận định về cộng đồng tộc Việt thông qua khái niệm Bách Việt, theo đó các tác giả Trung Quốc, Việt Nam và quốc tế sau này đều cho rằng cộng đồng Bách Việt bao gồm nhiều dân tộc, nhiều sắc tộc, nên chúng ta cần dựa vào các tài liệu liên ngành để xác định có đúng là “mỗi nơi đều có một chủng tính” hay không, điều này sẽ được chúng tôi tìm hiểu ở các phần sau.
Như vậy chúng ta đã biết người Bách Việt có một quốc gia chung, vậy quốc gia này do ai làm chủ? Các tài liệu Việt Nam và Trung Quốc cũng đều cho thấy những người làm chủ quốc gia của dân Bách Việt là các vua Hùng.
Thủy kinh chú, quyển 37, Diệp Du hà (Bắc Ngụy – Lịch Đạo Nguyên soạn) dẫn Giao châu ngoại vực kí chép: “交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王、雒侯,主諸郡縣。” – “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, dân làm ăn ở ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống, nhân đó có tên là dân Lạc, đặt ra Lạc Vương – Lạc Hầu để làm chủ các quận huyện, huyện phần nhiều có chức Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh.” [2]
Thủy Kinh chú chép về chi tiết: “đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện”, chi tiết này cho chúng ta thấy khái niệm Giao Chỉ ở đây được sử dụng để chỉ Giao Chỉ bộ, khi đó thuộc một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía Nam sông Dương Tử, ở đây tài liệu chưa cho biết chính xác mốc thời gian, nên qua đây chúng ta tạm hiểu hiểu Giao Chỉ ở đây là một vùng rộng lớn, có thể phía Nam Dương Tử hoặc phía Nam Ngũ Lĩnh mà không chỉ gói gọn trong vùng miền Bắc Việt Nam. Đây là quốc gia do “Lạc Vương” làm chủ, có các Lạc Hầu, Lạc Tướng làm chủ các quận huyện. “Lạc Vương” ở đây sách Thủy Kinh chú chép nhầm từ “Hùng Vương”, hay Lạc Vương cũng chính là Hùng Vương, theo sách Cựu Đường Thư dẫn Nam Việt chí, thì người làm chủ quốc gia của tộc Việt là Hùng Vương.
Cựu Đường thư, (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống 420 – 479) chép: “交趾之地,最為膏腴。舊有君長曰雄王,其佐曰雄侯。後蜀王將兵三萬討雄王,滅之。蜀以其子為安陽王,治交趾。其國地,在今平道縣東。其城九重,周九里,士庶蕃阜。尉佗在番禺,遣兵攻之。王有神弩,一發殺越軍萬人,趙佗乃與之和,仍以其子始為質。安陽王以媚珠妻之,子始得弩毀之。越兵至,乃殺安陽王,兼其地。” – “Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc. Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngu phát binh sang đánh. Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy.” [2]
Như vậy chúng ta có thể thấy được Giao Chỉ là đất của cộng đồng tộc Việt, quốc gia của tộc Việt có địa bàn trải rộng trong vùng phía Nam sông Dương Tử, và có các vua Hùng lãnh đạo và quản lý.
Thời kỳ Hùng Vương chấm dứt khi An Dương Vương lên ngôi, ông đã trực tiếp lãnh đạo người Việt chống quân Tần, sau cuộc chiến này, người Việt mất vùng Lưỡng Quảng, An Dương Vương lui về miền Bắc Việt Nam để thành lập nước Âu Lạc. [3]
Trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, phần Trần Thiệp thế gia, khi nói về nước Tần có chép: “Phía nam lấy đất Bách Việt, lập thành Quế Lâm, Tượng Quân. Vua của Bách Việt cúi đầu, buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục.” [4]
Về câu “buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục” thì trong sách sử của người Hoa Hạ, họ thường hạ thấp, bôi xấu kẻ thù, dù cho là thắng hay thua, để nâng cao vị thế của đất nước mình. Trong cuộc chiến chống Tần do An Dương Vương lãnh đạo sau khi giành ngôi của vua Hùng, thì An Dương Vương vẫn còn sống, đã di cư về miền Bắc Việt Nam và lập ra nước Âu Lạc, nên Tư Mã Thiên chép về việc “vua Bách Việt cúi đầu, buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục” là không có cơ sở. Ở đây, các chi tiết quan trọng hơn mà chúng tôi muốn tập trung tới, đó là “phía nam lấy đất Bách Việt”, “Vua của Bách Việt”, rõ ràng qua các chi tiết này, Tư Mã Thiên cũng đã xác nhận Bách Việt là một khối thống nhất, người Bách Việt có vua, có người lãnh đạo, có chủ quyền và có nhà nước thống nhất, chứ không phải những bộ lạc không liên quan tới nhau. Chi tiết “lấy đất Bách Việt” cũng thể hiện rõ việc nhà Tần chỉ lấy được một phần đất của Bách Việt là vùng Lưỡng Quảng, chứ chưa thể chiếm gọn đất của Bách Việt.
Sử Ký của Tư Mã Thiên, trong phần Tôn Tử, Ngô Khởi liệt truyện có chép: “Vua Sở là Điệu Vương vốn nghe tiếng Ngô Khởi hiền, nên Khởi đến Sở liền được làm tể tướng. Khởi nêu rõ pháp luật, lệnh ra thì thi hành bỏ những chức quan không cần thiết, bỏ không chu cấp cho những người họ nhà vua đã xa nhiều đời, để hậu đãi nuôi dưỡng những người chiến đấu, cốt làm cho quân mạnh, phá tan những bọn chỉ đi nói suông về việc “hợp tung” hay “liên hoành”. Kết quả phía nam bình định Bách Việt, phía bắc lấy đất Trần, đất Thái, cự tuyệt Tam Tấn, phía tây đánh Tần.” [4]
Chi tiết trên cho chúng ta thấy người Hán đã xác nhận Bách Việt là một cộng đồng, khái niệm Bách Việt ở đây được đặt ngang với Trần, Thái, Tần, là các quốc gia có chủ quyền, cũng có nghĩa Bách Việt ở đây là một khối thống nhất. Về chi tiết “phía nam bình định Bách Việt“, thì trong sử sách cũng cho chúng ta thấy các cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Sở xuống các vùng đất phía Nam của tộc Việt, trong đó bao gồm vùng Hồ Nam và Vân Nam.
Chiến Quốc sách, khi viết về Ngô Khởi (440 TCN – 381 TCN) đã ghi lại: 南攻楊越,北並陳、蔡… –” Nam đánh Dương Việt, Bắc thôn tính Trần, Thái…” [5]
Đây là cuộc chiến xâm lược xuống vùng Hồ Nam của tộc Việt của nước Sở: “Nam đánh Dương Việt”, Dương Việt là cái tên khác mà người Hoa Hạ dùng để chỉ cộng đồng tộc Việt. Sau đó nước Sở đã chiếm được vùng này, tới thời Khuất Nguyên thì ông được đày xuống đây, sinh sống cùng người Việt bản địa và sáng tác nên tập Ly Tao. Đoạn trích trên chúng ta cũng để tới hai từ “đánh” và “thôn tính”, thì với tộc Việt, nước Sở “đánh” Dương Việt”, còn với các quốc gia Trần, Thái thì là “thôn tính“, có nghĩa tộc Việt là một khối thống nhất rộng lớn, nên nước Sở chỉ đánh và chiếm được một phần vùng đất của tộc Việt, đất đai còn lại vẫn còn rộng, chứ không mất hẳn như Trần, Thái. [5] Chi tiết này cũng rất quan trọng, giúp chúng ta thấy được một phần lịch sử của tộc Việt.
Cuộc chiến tiếp theo là cuộc hành quân xâm lược xuống vùng Vân Nam của tộc Việt của tướng nước Sở là Trang Kiểu. Cuộc xâm lược này đã thành công, tướng Trang Kiểu đã chiếm được vùng Vân Nam, tuy nhiên sau đó nước Sở thất trận trước nhà Tần, Trang Kiểu không còn lối về cố quốc, nên đã lập nên vương quốc Điền Việt tại vùng Vân Nam.
Sử Ký, Tây Nam di liệt truyện, Tư Mã Thiên chép: “Lúc trước vào thời Uy Vương nước Sở, sai tướng quân tên là Trang Cược (Trang Kiểu) đem quân ngược theo sông Giang đánh lấy các nước từ quận Ba-Thục-Kiềm Trung về phía tây. Trang Cược vốn là dòng dõi của Trang Vương nước Sở. Cược đến đầm Điền, đầm rộng ba trăm dặm, bên đầm là đất bằng màu mỡ rộng mấy ngàn dặm, bèn đem quân uy hiếp lấy gộp vào nước Sở. Muốn về báo tin, nhưng gặp lúc quân nước Tần đánh lấy các quận Ba-Kiềm Trung của nước Sở, đường bị nghẽn chẳng thông, do đó quay lại, làm vua của người nước Điền, đổi áo theo thói của người ở đấy để làm kẻ đứng đầu.” [6]
Tới thời Nam Việt thì cộng đồng Bách Việt vẫn tồn tại trong một cộng đồng chung, tuy nằm trong quốc gia Nam Việt do Triệu Đà, một vị tướng nhà Tần thành lập, tuy nhiên cư dân Bách Việt vẫn tiếp tục duy trì văn hóa của mình, không bị ảnh hưởng nhiều bởi các chính sách cai trị của Triệu Đà.
Trong phần Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Sau khi Hán Cao Đế bình định được thiên hạ, thấy Trung Quốc mới khổ nhục, cực nhọc, nên tha Đà không trị tội. Năm thứ 11 (năm 196 trước Công nguyên), Hán sai Lục Giả sang, nhân tiện phong cho Đà làm Nam Việt Vương, chặt phù để làm tin, cho phép phái sứ giả đi lại với Trung Quốc, bảo phải hòa hợp với Bách Việt, không được gây việc lo ngại ở biên giới phía Nam.” [4]
Như vậy thông qua khảo cứu các tài liệu lịch sử, chúng ta thấy rất rõ được sự liên hệ và gắn bó chặt chẽ của cộng đồng tộc Việt, họ có một quốc gia chung, là quốc gia của các vua Hùng, có chủ quyền về lãnh thổ, không phải những bộ lạc rời rạc không có sự liên hệ với nhau như một số quan điểm đã từng đề xuất.
II. Di truyền của các cư dân thuộc cộng đồng tộc Việt:
Các nghiên cứu di truyền cho chúng ta thấy rất rõ được sự thống nhất và liên hệ của cộng đồng tộc Việt.
Công trình nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) năm 2019, đã cho thấy các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt như Việt (Kinh), Tày, Nùng, Mường, Thái, Dai, Hán Hoa Nam… có hệ gen gần nhau và khác biệt so với Hán Hoa Bắc. [7]
Admixture của công trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) cho thấy sự gần gũi trong hệ gen của các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt như Việt, Mường, Tày, Thái, Nùng… [7]
Nghiên cứu gen của Zhang và cộng sự et al. 2019 [8] cho thấy người Việt (Kinh) có di truyền gần gũi với người Choang ở Quảng Tây, người Hán Quảng Đông và người Miêu tại vùng Quý Châu. Đây là các nhóm dân có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt, sự gần gũi di truyền chứng tỏ sự tương tác và hòa huyết thường xuyên của cư dân tộc Việt tại các vùng.
Nghiên cứu của Zhang và cộng sự et al. 2019 cho thấy gen người Việt (Kinh) gần với người Miêu Quý Châu, người Choang và người Hán Quảng Đông. [8]
Các cư dân thuộc cộng đồng tộc Việt cùng sinh sống trong một cộng đồng chung, có sự liên hệ và hòa huyết với nhau liên tục, nên các nghiên cứu di truyền gen hiện đại cho chúng ta thấy được các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt có gen rất gần gũi với nhau. Nếu không có sự liên hệ, giao lưu và hòa huyết trong một cộng đồng chung trong thời gian lâu dài, thì chắc chắn gen của các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt ngày nay sẽ không gần nhau như vậy, mà có sự khác biệt đáng kể.
III. Cổ vật các vùng tộc Việt:
Cổ vật các vùng tộc Việt thể hiện rất rõ sự liên hệ và gắn bó của cư dân các vùng. Các cổ vật đều có chung một phong cách, khác biệt đáng kể với hệ thống cổ vật của vùng Đông Nam Á cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn, cũng như khác biệt hoàn toàn với hệ thống cổ vật của văn hóa Hoa Hạ.
Các cổ vật các vùng tộc Việt thể hiện ảnh hưởng rất rõ của văn hóa Đông Sơn, các loại hình cổ vật Đông Sơn đều được các vùng tộc Việt khác đúc và sử dụng, tương đồng về hầu hết các loại hình cổ vật.
1. Trống đồng:
Trống đồng là vật biểu tượng quan trọng nhất cho văn hóa của cộng đồng tộc Việt, trống có chức năng đại diện quyền lực và có chức năng thờ Trời.
Trống đồng Việt Nam (Sông Đà), Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. [Nguồn: 1. Bảo tàng Guimet, Pháp, dẫn; 2. Bảo tàng khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, dẫn; 3. Bảo tàng tỉnh Vân Nam, dẫn; Bảo tàng tỉnh Quý Châu, dẫn]
2. Thạp đồng:
Thạp đồng các vùng tộc Việt: Việt Nam, Quảng Đông, Vân Nam, Quảng Tây, lưu vực sông Dương Tử. [Nguồn: 1. Bảo tàng Barbier-Mueller, dẫn; 2. Bảo tàng tỉnh Quảng Đông, dẫn.; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, dẫn; 4. Trình Năng Chung, 2015, tr. 325, Mối Quan Hệ Văn Hoá Đông Sơn Và Các Văn Hoá Kim Khí Ở Miền Nam Trung Quốc; 5. Bảo tàng Văn minh Trường Giang, Trung Quốc, dẫn]
3. Rìu đồng:
Rìu lưỡi hài tại các vùng: Việt Nam, Hồ Nam, Quảng Đông. [Nguồn: 1. Martin Doustar, 2014, Art of Bronze Age in Southeast Asia; 2. Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, dẫn; 3. Nguồn: Bảo tàng Nanshan, Thâm Quyến, dẫn]
Rìu cân xòe tại các vùng tộc Việt: Việt Nam, Chiết Giang, Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Bắc, Hồ Nam. [Nguồn: 1. Art Gallery of New South Wales, dẫn; 2. Bảo tàng thành phố Ninh Ba, Chiết Giang, dẫn; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, dẫn; 4. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 5. Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, dẫn; 6. Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, China Institute, dẫn.]
4. Chuông đồng:
Chuông tai dê tại các vùng: Quảng Đông, Việt Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam. [Nguồn: 1. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 2. Báo Đảng Cộng Sản, dẫn; 3. Bảo tàng tỉnh Quý Châu, được dẫn lại trong nghiên cứu của bảo tàng Quảng Tây [dẫn]; 4. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, dẫn; 5. Bảo tàng Ngọc Khê, Vân Nam; 6. Bảo tàng thành phố Trường Sa, Hồ Nam.]
5. Dao găm đồng:
Dao găm tại các vùng: Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam. [Nguồn: 1. Kiều Quang Chẩn, 2018, Vang vọng từ trống Đông Sơn; 2. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, dẫn ; 4. Bảo tàng tỉnh Quý Châu, dẫn; 5. Bảo tàng thành phố Côn Minh, Vân Nam, dẫn]
6. Tiểu kết:
Các tài liệu khảo cổ đã thể hiện rất rõ tính thống nhất về mặt văn hóa và cổ vật của cộng đồng tộc Việt.
IV. Những địa danh tại các vùng tộc Việt:
Các địa danh tại các vùng tộc Việt tới hiện nay vẫn còn giữ được những nét thống nhất rất rõ ràng. Hệ thống các địa danh của các vùng Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam thể hiện thống nhất trong các tên gọi địa danh liên quan tới Pu/Pù (núi), Tà (sông nước), Na/Nà (ruộng lúa). Ở bảng phía dưới chúng tôi chỉ dẫn ra những tài liệu chỉ cụm phức hợp địa danh tại từng vùng để đối chiếu và so sánh trực tiếp, ngoài ra còn rất nhiều tên địa danh khác có sự tương đồng và gần gũi. [9]
| Pu/Pù | Tà | Na/Nà |
Nam Ninh (Quảng Tây) | Pu Pâu (Xào Cheng), Pu Thảng (Thái Dung Sơn). (Nam Ninh có rất nhiều Pu). | Tà Môn, Tà Thủng, Tà Phình, Tà Nen, Tà Sa Phinh, Tà Suay, Tà Lý, Tà Tháng, Tà Phấng, Tà Trang, Tà Pho, Tà An, Ta Uy, Tà Châu, Tà Xeo, Tà Lung, Tà Oan. | Na Chin, Na Pái, Na Thung, Na Chi, Na Lao, Na Tẩu, Na Mà, Na Tha, Na Siêu. |
Trạm Giang (Quảng Đông) | Pù Thâu, Pù Mây, Pu Sầng | Tà Lu, Tà Chữ, Tà Lung Mầu, Tà Thung. | Nà Sô, Na Lứa, Na Mèn, Na Xac, Nà Xuy, Na Li, Na Pù, Na Xứ, Na Bua, Na Cang, Na Sâu, Na Cheo. |
Vụ Bản (Nam Định) | Pù Biêng, Pù Han Le, Pù Cột Ca. | Tà Hu, Tà La. | Na Kou, Na Nha, Nà Trâm, Na Trâm, Na Tông, Na Ca, Na Bạc, Na Sa. |
Bái Thượng Thường Xuân (Thanh Hóa) | Pù Kha, Pù Câu, Pà Ton, Pù Quàng, Pù Cầm, Pù Ham, Pù Chó, Pù Doanh. | Tà Lèo, Tà Hinh, Tà Lu (thuộc hệ thống sông Chu). | Na Chú, Na Am, Na Thảo, Na Châm, Na Tú, Na Nôm, Na Vu, Na Cơ. |
Qùy Châu (Nghệ Tĩnh) | Pù Co, Pù Tang, Pù Quang, Pù Câm, Pù Mun. | Tà Hom, Tà Luc, Tà Nhâu, Tà Nôm.. | Na Xai, Na Toong, Na Ta, Na Táng, Na Thang, Na Vang, Na Mu, Na Ca, Na Khang, Na Tram |
Toàn bộ vùng Lưỡng Quảng cũng có nhiều nơi có địa danh có từ kẻ, các địa danh có từ kẻ ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam hiện tại vẫn được tìm thấy rất nhiều. [9]
– Phiên Ngung có Kẻ Lâu Trường.
– Thương Ngô có Kẻ Lãm.
– Quế Bình có Kẻ Lăng.
– Nam Hải có Kẻ Táo.
– Quế Lâm có Kẻ Trúc.
– Thương Lâm có Kẻ Lập.
– Hạ Huyện có Kẻ Luân.
Qua một thời gian rất dài tách biệt nhau, hơn 2000 năm, một vùng sinh hoạt và chịu ảnh hưởng của người Hán và văn hóa Hán, một vùng giữ được độc lập, là một quốc gia độc lập, dân tộc độc lập, nhưng các địa danh vẫn rất tương đồng với nhau. Đây là các địa danh có từ thời xa xưa, có thể từ thời kỳ văn minh sông Dương Tử (hơn 4000 năm trước), bởi các dân tộc Tây Nguyên, các dân tộc thuộc hệ ngữ Nam Á cũng còn giữ được những địa danh có các tên có tên tương đồng với các tên này.
V. Những cuộc di cư về Việt Nam của cư dân tộc Việt:
Các cư dân tộc Việt cũng đã di cư về Việt Nam trong các cuộc chiến tranh loạn lạc, khi người Việt thất bại trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ. Vì Việt Nam là trung tâm của cộng đồng tộc Việt, có đông người Việt sinh sống nhất, nên các dòng di cư từ các vùng Quý Châu, Vân Nam, Ngô Việt chủ yếu tập trung về miền Bắc Việt Nam. Văn hóa tộc Việt tuy thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, mỗi vùng lại có những đặc trưng riêng nhất định, dựa vào đó, chúng ta có thể nhận thấy những cuộc di cư về Việt Nam của người Bách Việt.
1. Điền Việt:
Đầu tiên là người Điền Việt, thì chúng ta có thể nhận thấy được những dấu tích di cư rất rõ của người Điền Việt về Việt Nam thông qua nhiều cổ vật.
Các trống đồng Động Xá và Làng Vạc là các trống khá nổi tiếng của văn hóa Đông Sơn, tuy nhiên chúng ta nhận thấy được phong cách trống đồng của người Điền Việt được thể hiện khá rõ ràng trên hình dáng và hoa văn của những chiếc trống này. Cũng có tác giả đã kết nối về sự kế thừa của những chiếc trống Đông Sơn với văn hóa Điền như Tạ Đức. [10]
Trống đồng Điền Việt và trống đồng Động Xá. [Nguồn: 1. Bảo tàng tỉnh Vân Nam, dẫn; 2. Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn]
Trống đồng Điền Việt và trống đồng Làng Vạc. [Nguồn: 1. Gary Todd, chụp tại Bảo tàng tỉnh Côn Minh, dẫn; 2. Bảo tàng lịch sử Việt Nam]
Các trống này có sự khác biệt rất đáng kể so với trống đồng truyền thống của người Việt trong vùng miền Bắc Việt Nam, có thể nói trống Điền Việt tuy có cùng ý nghĩa, nhưng có bản sắc riêng, từ đó chúng ta thấy được cuộc di cư của những cư dân tộc Việt tại vùng Vân Nam về miền Bắc Việt Nam.
2. Dạ Lang:
Cư dân Dạ Lang trong vùng Quý Châu có thể cũng đã di cư về miền Bắc Việt Nam, với việc phát hiện một số chiếc kiếm đồng có phong cách tương đồng với vùng Dạ Lang tại miền Bắc Việt Nam. Phong cách kiếm này là phong cách chung của tộc Việt, tuy nhiên, kiếm dạng này khá đa dạng về cách trang trí, có một số dạng nhất định lại gần với người Dạ Lang.
Kiếm đồng Việt Nam và kiếm đồng Quý Châu văn hóa Kele. [Nguồn: 1. Kiều Quang Chẩn, 2018, Vang vọng từ trống Đông Sơn; 2. [11]
3. Tây Âu:
Người Tây Âu tại vùng Quảng Tây cũng di cư về miền Bắc Việt Nam trong thời An Dương Vương, các tài liệu khảo cổ cho thấy An Dương Vương có nguồn gốc Tây Âu, ông cùng một lượng nhất định cư dân Tây Âu đã di cư về miền Bắc Việt Nam để hình thành nước Âu Lạc, [3], có nhiều tài liệu khảo cổ, lịch sử chứng minh về cuộc di cư này.
Chiếc trống đồng Cổ Loa, được tìm thấy tại khu di tích Thành Cổ Loa gắn liền với thời kỳ An Dương Vương, có khắc một số minh văn chữ Hán, những chữ viết trên trống đồng giúp chúng ta nhận diện được sự hiện diện của người Tây Âu tại miền Bắc Việt Nam. Chữ được khắc trên chiếc trống đồng được tiến sĩ Nguyễn Việt giải mã như sau:
“Tây Vu tập bát cổ, trọng lưỡng cá bách bát thập nhất cân”
“Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân” [12]
Trống đồng Cổ Loa và minh văn khắc trên thân trống. [Nguồn: 1, 2]
Bên cạnh chiếc trống đồng này, còn một chiếc ấm đồng khác cũng được khắc dòng chữ Hán có nghĩa là “Tây Vu”, chiếc ấm đồng này có niên đại vào khoảng thế kỷ I-II TCN.
Ấm đồng có niên đại vào thế kỷ I-II TCN có khắc chữ Tây Vu. [Nguồn: Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn]
4. Ngô Việt:
Người Ngô Việt cũng đã di cư về miền Bắc Việt Nam, mang theo những đặc trưng văn hóa của mình hòa vào dòng văn hóa của người Việt tại miền Bắc Việt Nam. Trong mộ thuyền Việt Khê đã tìm thấy khá nhiều di vật có đặc trưng của văn hoá Ngô Việt.
Một số cổ vật có phong cách Ngô Việt trong mộ Việt Khê. [13]
5. Tiểu kết:
Dựa trên những bằng chứng khảo cổ, ngôn ngữ, có thể nói rằng, người Việt không chỉ là một phần quan trọng của cộng đồng tộc Việt, mà còn là tổng hòa di truyền và văn hóa của cả cộng đồng tộc Việt, đón nhận và hòa hợp cùng với nhiều dòng di cư của tộc Việt về miền Bắc Việt Nam trong nhiều thời kỳ để hình thành dân tộc Việt.
V. Kết luận:
Như vậy qua việc khảo cứu toàn diện nhiều bằng chứng, chúng ta có thể thấy được sự liên hệ và gắn bó chặt chẽ giữa người Việt và người Bách Việt, không thể tách rời người Việt và người Bách Việt, điều đó hoàn toàn phi lịch sử và phi khoa học. Các quan điểm cho rằng Bách Việt là một cộng đồng không có sự liên hệ với nhau, hay Bách Việt là của người Trung Quốc không còn thực sự phù hợp. Chúng ta có thể kết luận rằng, người Bách Việt đã cùng sinh sống trong một cộng đồng chung, một quốc gia chung, và là một dân tộc, họ có chủ quyền về lãnh thổ, không phải là những bộ lạc, tộc người không có sự liên hệ với nhau như một số quan điểm đã đề xuất.
Hình minh họa: ngọc đại bàng đôi văn hóa Thạch Gia Hà, biểu trưng trình độ phát triển văn minh của cộng đồng tộc Việt. Nguồn gốc: dẫn; vẽ lại bởi Hiro Liu, dẫn.
Trong bài viết chúng tôi có sử dụng một số tư liệu lịch chưa rõ tác giả, xin chân thành cảm ơn tư liệu dịch của các tác giả được sử dụng trong bài.
Tài liệu tham khảo:
[1] Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt – Trần Gia Ninh
[2] Tích Dã, Thời đại Văn Lang – Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam: Từ truyện ký đến tín sử
https://nghiencuulichsu.com/2019/05/10/thoi-da%cc%a3i-van-lang-au-la%cc%a3c-trong-li%cc%a3ch-su%cc%89-vie%cc%a3t-nam-tu-truye%cc%a3n-ky-den-tin-su%cc%89/
[3] Lang Linh, An Dương vương trong dòng lịch sử tộc Việt
https://luocsutocviet.wordpress.com/2021/04/12/524-khao-su-ve-quoc-gia-van-lang-va-thoi-ky-hung-vuong/
[4] Sử ký Tư Mã Thiên, Tư Mã Thiên (Phan Ngọc dịch), NXB Văn Học, 2003.
[5] Phan Anh Dũng, Khảo sát tên gọi Văn Lang trên cơ sở ngữ âm lịch sử
http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/111-goc-nhin-van-hoa-2/13730-khao-sat-ten-goi-van-lang-tren-co-so-ngu-am-lich-su
[6] Tích Dã, Vương quốc Dạ Lang
https://nghiencuulichsu.com/2014/04/21/vuong-quoc-da-lang/
[7] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution.
https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099
[8] Zhang H, He G, Guo J, Ren Z, Zhang H, Wang Q, Ji J, Yang M, Huang J, Wang CC. Genetic diversity, structure and forensic characteristics of Hmong-Mien-speaking Miao revealed by autosomal insertion/deletion markers. Mol Genet Genomics. 2019 Dec;294(6):1487-1498. doi: 10.1007/s00438-019-01591-7. Epub 2019 Jul 16. PMID: 31312894.
[9] Lê Trọng Khánh, Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ địa danh – ngôn ngữ Việt cổ – bước đầu góp phần vào việc tiếp cận một số vấn đề lịch sử cổ đại
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/71284/1/263%281992-4%29%285%29.pdf
[10] Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường. NXB Tri Thức.
[11] Guizhou Provincial Institute of Antiquity and Archaeology, Tombs of the Yelang Period at Kele in Hezhang, Guizhou
http://www.kaogu.net.cn/en/Chinese%20Archaeology/Tombs%20of%20the%20Yelang%20Period%20at%20Kele%20in%20Hezhang,%20Guizhou.pdf
[12] Phương Hòa, Chiếc trống có chữ khắc duy nhất trong thành Cổ Loa.
https://vnexpress.net/chiec-trong-co-chu-khac-duy-nhat-trong-thanh-co-loa-3361963.html
[13] Wei Weiyan, Shiung Chung‐Ching, Viet Khe Burial 2: Identifying the Exotic Bronze Wares and Assessing Cultural Contact between the Dong Son and Yue Cultures
https://www.academia.edu/9358379/Viet_Khe_Burial_2_Identifying_the_Exotic_Bronze_Wares_and_Assessing_Cultural_Contact_between_the_Dong_Son_and_Yue_Cultures
luocsutocviet