1. Tục ngữ – thành ngữ – ca dao Việt Nam về chuột:

Chuột đóng góp vào kho tàng ngôn ngữ, làm phong phú cho tục ngữ – thành ngữ Việt Nam không ít, nhiều câu phổ biến rộng được mọi người dùng trong sinh hoạt hằng ngày:

– Chuột chạy cùng sào: có nghĩa chuột chạy đến đầu mút cây sào là hết đường. Đối với con người, đây là bước đường cùng, là bế tắc, khốn cùng, không có lối thoát.
– Chuột cắn dây buộc mèo: phê phán những kẻ đi làm ơn cho hạng người có thể quay mặt làm hại mình, gọi là làm ơn mắc oán, như hình ảnh chuột cứu mèo.
– Chuột chê xó bếp chẳng ăn /Chó chê nhà dột sang nằm bụi tre: giễu cợt kẻ hợm đời, trưởng giả học làm sang, làm ra bộ khó tính.
– Chuột chù đeo đạc (mõ): cười những kẻ đua đòi, đài các rởm không tự biết thân phận mình.

Ca dao cũng có câu:

Chim chích mà đậu cành sồi
Chuột chù trong cống đòi soi gương Tàu

– Chuột chù lại có xạ hương: phê phán những kẻ bất tài vô tướng nhưng hay khoe khoang, khoác lác.
– Hôi như chuột chù: họ hàng nhà chuột có đến hàng chục loài, trong đó có chuột chù đặc biệt hôi hám. Người xưa còn dựng nên câu đối thoại thật vui và dí dỏm để ám chỉ những kẻ chỉ biết chê người mà không tự xét mình:

Chuột chù chê khỉ rằng hôi
Khỉ mới trả lời: cả họ mày thơm?

Chuột - Từ biểu tượng văn hóa đến hình tượng văn học - Tạp chí Tao Đàn

– Chuột chù nếm giấm: chê những kẻ ngu dốt mà lại hay tỏ ra thành thạo, lên mặt dạy đời.
– Chuột đội vỏ trứng: chê những kẻ muốn che giấu bản chất xấu xa, không tốt của mình bằng vỏ bọc ngoài giả tạo.
– Chuột gặm chân mèo: phê phán những kẻ táo bạo, liều lĩnh, làm những công việc phiêu lưu mạo hiểm.
– Chuột sa chĩnh gạo hay Chuột sa bồ nếp hoặc Chuột sa lọ mỡ: những người xưa nay vốn sống trong cảnh nghèo khó, túng thiếu, bỗng dưng gặp vận may, được đổi đời, sung sướng, ấm no và hạnh phúc.
– Chuột chù phải khói: chỉ những hạng người chậm chạp, lù đù, không lanh lợi.
– Mèo nhỏ bắt chuột to: phê phán những hạng người không biết tự lượng sức mình mà làm những việc quá khả năng.
– Chuột sa cũi mèo: đề cập chuyện rủi ro ở đời, có lúc rơi vào hoàn cảnh hết sức nguy hiểm.
– Mắt dơi mày chuột: chỉ hạng người có bộ dạng gian xảo, chỉ chờ chực làm những việc xấu xa, hại người.
– Mèo khóc chuột: chỉ những kẻ đạo đức giả.
– Nói dơi nói chuột: để chỉ hạng người hay nói những chuyện đâu đâu, không ăn nhập vào vấn đề.
– Cháy nhà ra mặt chuột: hình ảnh ví những kẻ tiểu nhân, sống cố tình che giấu những điều ám muội, đến khi nguy hiểm mới lộ ra bộ mặt hèn hạ của mình.
– Đầu voi đuôi chuột: chỉ hạng người mới bắt đầu làm công việc gì thì phô trương những điều to tát, quy mô nhưng kết cục thì kém cỏi, chẳng được tích sự gì.
– “Chuột kêu chút chít trong rương/ Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay”: mượn hình ảnh chú chuột để nói lên vụng trộm ái tình trong đêm khuya của đôi lứa yêu nhau .

Như vậy, có bao nhiêu thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong văn học dân gian Việt Nam nói về chuột thì có bấy nhiêu lời gièm pha, chế giễu, lên án, phê phán… May có được câu ca dao lãng mạn, tình tứ trên đây vớt vát phần nào cho thân phận của chuột trong tâm thức vốn ghét bỏ chuột từ lâu đời của nhân dân ta.

2. Tục ngữ – thành ngữ thế giới về chuột:

Trong kho tàng ngôn từ chữ nghĩa của thế giới, chuột cũng đã góp mặt trong nhiều câu tục ngữ – thành ngữ của nhiều quốc gia, ngẫm thấy đều mang tính chất châm biếm ý nhị, triết lý sâu xa và cũng không kém phần hóm hỉnh hài hước. Đặt một số câu tục ngữ – thành ngữ của các nước bên cạnh tục ngữ – thành ngữ Việt Nam về chuột, để có thể tìm thấy những nét tương đồng qua tư duy quan niệm, những ngôn từ đồng cảm qua trải nghiệm đúc kết, giữa các cộng đồng sống cách nhau những lằn ranh biên giới và rào cản bất đồng ngôn ngữ.

– Con mèo hay kêu là con mèo bắt chuột tồi. (Tây Ban Nha).
– Khi chuột và mèo đã hòa hoãn với nhau thì thức ăn của chúng sẽ phải chịu nhiều đau khổ. (Ả Rập).
– Cơn giận dữ của con mèo còn tốt hơn sự trung thực của con chuột. (Ả Rập).
– Trong ngôi nhà trống thì ngay cả con chuột cũng không thèm ở. (Đức)
– Cái chết của con chuột là cái cười của con mèo. (Ethiopia)
– Mèo đeo găng tay thì không bắt được chuột. (Anh)
– Khi những con mèo đi khỏi thì những con chuột làm chủ. (Tanzania)
– Đối với chuột thì không có con thú nào mạnh hơn con mèo. (Nga)
– Đối với chuột nhắt thì không có thú dữ nào khỏe hơn mèo. (Armenia)
– Con mèo sẽ không bao giờ từ chối việc bắt chuột. (Đức)
– “Sát nhất miêu, cứu vạn thử” – Diệt một con mèo có thể cứu được mười nghìn con chuột. (Trung Quốc)
– Nếu có thể giàu lên vì ăn cắp thì con chuột nhắt đã trở thành giàu có nhất rồi. (Armenia)
– Mèo lười không bắt được chuột. (Syria)
– Trong thời chiến thì con chuột cũng trở thành con hổ. (Bangladesh)
– Con chuột nhắt còn sống tốt hơn con sư tử đã chết. (Turkmenistan)
– Ngay cả con chuột nhắt cũng là mạnh nếu nó ở trong hang của nó. (Geogria)
– Người chồng giống như con chuột nhắt – cóp nhặt, người vợ giống như con vịt – phá phách. (Kazakhstan)
– Con chuột lơ đãng là miếng mồi dành cho con mèo. (Ả Rập)
– Con chuột nhắt đói sẵn sàng ăn thịt cả con mèo. (Trung Quốc)
– Người nghèo nói con mèo ăn thịt – không ai tin, người giàu nói con chuột nhắt ăn sắt – tất cả đều tin. (Guyana)
– Chuột nhắt không cắn mèo. (Thái Lan)
– Ngay cả những con chuột cũng không đến chơi nhà người nghèo. (Nepal)
– Trong giấc mơ của mèo chỉ có những con chuột. (Ả Rập)
– Trong con mắt sợ hãi thì con chuột nhắt to bằng quả núi. (Guyana)

Và dĩ nhiên, còn rất nhiều câu khác mà ta chưa hề được nghe biết đến. Điều tra nhận thấy rõ trong số thành ngữ – tục ngữ vừa đọc qua, là mối liên hệ “gắn bó mật thiết” của chuột và mèo, người ta cho rằng đó là “mối thù truyền kiếp”. Đa số khi nói đến chuột là người ta nhắc đến mèo, và ngược lại. /.