Không ít người trong chúng ta từ nhỏ đã được nghe câu ca dao:

“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”.

Vậy Đồng Đăng là ở đâu? Nàng Tô Thị là ai, và phố Kỳ Lừa, chùa Tam Thanh là những địa danh như thế nào? Chúng tôi xin được làm rõ trong bài viết lần này.
Thực tế, những chi tiết được đề cập tại đây đều xoay quanh tỉnh Lạng Sơn. ĐỒNG ĐĂNG là một thị trấn thuộc huyện Cao Lộc, cách thành phố Lạng Sơn 14km về phía Đông Bắc. Đây là một cứ điểm trọng yếu tại biên giới Việt Nam – Trung Quốc, nổi tiếng với di tích Pháo đài Đồng Đăng. “Đồng Đăng” trong tiếng Hán được viết bởi hai chữ 同登,trong đó “Đồng” (同) có nghĩa là “cùng nhau” như trong “đồng lòng”, “đồng ý”… còn “đăng” (登) có nghĩa là “leo lên”, “trình lên”, cũng là gốc của “đăng” trong “đăng bài”. Vậy Đồng Đăng có thể hiểu là “cùng leo lên”, “cùng vượt lên”. Tên này có lẽ dựa trên địa đồi núi khúc khuỷu tại đây.

PHỐ KỲ LỪA, hay phố chợ Kỳ Lừa là một trung tâm giao thương tấp nập tại Lạng Sơn, được manh nha hình thành từ rất sớm, khoảng thế kỷ XI – XII. Tên gọi của phố này bắt nguồn từ một câu chuyện thú vị. Ngày ấy, người dây Lạng Sơn thường dùng lừa để chuyển chở hàng hoá vào mùa cạn, trong đó cặp lừa của viên tổng trấn được cho là “kỳ lạ nhất vùng” vì rất tinh khôn, lại chở hàng khoẻ và luôn chung thuỷ với chủ. Tại đây có một ngọn đồi mà đàn lừa thường hay gặm cỏ gọi là Đồi Lừa. Sau Đồi Lừa bị phạt mất để dựng chợ, người dân phải di chuyển lừa đến xa để kiếm cỏ ăn. Có lẽ vì không quen đường mà cặp lừa của viên tổng trấn bị mất tích, dân trong vùng đổ ra tìm mà cũng không thấy tăm hơi. Vì tiếc thương chúng, người ta đã gọi chợ là Kỳ Lừa, tức “giống lừa kỳ lạ”.

NÀNG TÔ THỊ là nhân vật trong câu chuyện sự tích Hòn Vọng Phu. Ngày ấy có hai anh em, người anh tên Tô Văn và người emtên Tô Thị. Khi còn nhỏ, có lần Tô Văn nghịch ngợm ném đá trúng Tô Thị, để lại một vết sẹo trên đầu em gái. Sau do biến cố gia đình nên hai anh em lưu lạc mỗi người một phương. Khi họ lớn lên, do nhân duyên đưa đẩy mà gặp lại nhau, nhưng cả hai đều thay đổi quá nhiều nên chẳng ai nhận được kia là anh/ em của mình cả. Dần dần, Tô Văn, Tô Thị nảy sinh tình cảm rồi kết nghĩa vợ chồng và có với nhau một người con. Ngày nọ, Tô Văn phát hiện ra vết sẹo trên đầu vợ, đâm nghi ngờ liền hỏi, Tô Thị không hiểu nên hồn nhiên kể lại chuyện xưa. Nghe xong, biết mình đã lấy nhầm em gái, quá đau đớn, Tô Văn quyết định bỏ đi. Từ đó ngày ngày Tô Thị bồng con ra đứng trông chồng, đến nỗi hoá đá thành Hòn Vọng Phu. Về sau, người ta dùng danh từ Hòn Vọng Phu để chỉ những tảng đá có dạng mẹ bồng con, và Lạng Sơn cũng có một khối đá như vậy.

Còn CHÙA TAM THANH là một ngôi chùa nằm trong động Tam Thanh có từ thời Lê, là một điểm tham quan nổi tiếng của xứ Lạng. Các nhà nghiên cứu cho rằng sở dĩ gọi là Tam Thanh vì nơi đây trưa kia vốn thờ đạo giáo, và Tam Thanh chính là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh, tức ba cõi tiên. Về sau Đạo giáo phai mờ dần, người ta mới đưa Phật giáo vào để thờ cúng.

Nói về LẠNG SƠN, thì “Sơn” chắc chắn là “núi” còn “Lạng” đã được tác giả Nguyễn Duy Hinh chỉ ra là phiên âm Hán Việt của chữ “Lũng” trong tiếng Tày – Nùng với nghĩa “thung lũng”. Và như vậy “Lạng Sơn” là xứ sở của những đồi núi và thung lũng.

Câu ca dao ở đầu bài thực tế vẫn còn rất dài, với nhiều dị bản khác nhau. Ở đây chúng tôi xin được giới thiệu đến quý độc giả một trong những dị bản ấy:

“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.
Em lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu nắm nem,
Khi vui quên hết lời em dặn dò”.

(Tham khảo bài viết của Ban quản lý tỉnh Lạng Sơn, tác giả Hữu Sơn, Vương Tâm, Nguyễn Xuân Kính)

Tiếng Việt giàu đẹp