Trong lịch sử của nhiều dân tộc, thỉnh thoảng có những khám phá qua các dữ kiện mới, nhất là ở các thời đại sơ khai mà sử liệu không có hay ghi lại rất ít. Nhiều khi các sự nghiên cứu và hiểu biết với tư liệu và sự kiện mới đã cho thấy một số tư tưởng truyền thống trước đây về nguồn gốc hay văn minh của một dân tộc có nhiều thiếu sót và thậm chí sai lạc. Ðâu ai biết ảnh hưởng rộng lớn của đạo Phật, cũng như của hoàng đế Asokha ở Ấn Ðộ cho đến khi Princep ở thế kỷ 19 đã giải mã các bia ký cổ đại phát hiện ở các vùng xa xôi biên cương từ Bắc đến Nam.
Sự tiến bước của nhiều ngành trong khoa học cũng đã được sử dụng (như dùng Carbon 14 để định tuổi, …) và đóng góp cho sự tìm hiểu và phát hiện mới trong lịch sử, mở rộng thêm kiến thức về sự phát triển hay tiến hóa văn hoá, văn minh của một dân tộc.
Di truyền và kỹ thuật sinh học hiện nay đang tiến mau lẹ với những khám phá hầu hết bộ mã di truyền người (genome), từ đó truy căn ra nguồn gốc các bệnh hiểm nghèo như ung thư, bẩm sinh… Người ta nói thế kỷ 21 là thế kỷ của kỹ nghệ thông tin và kỹ nghệ sinh học.
Có thể nói các vật chất như dữ liệu, bia ký, sử sách … qua thời gian sẽ hao mòn biến đổi, thất lạc hay biến đổi theo cách suy nghĩ của mỗi thời đại, nhưng trong con người vẫn còn tiềm tàng tồn trữ các mấu chốt của gene truyền từ thế hệ này qua các thế hệ khác. Sự phân phối (và biến dạng) của các gene ở các vùng địa lý khác nhau cũng cho ta thấy các kết quả của sự di dân trong từng chặng lịch sử.
Giáo sư Geoffrey Chambers, một khoa học gia ở Ðại học Victoria, Tân Tây Lan, trong năm 1998, đã chứng minh bằng di truyền qua các nghiên cứu về sự liên hệ của các giống dân ở các đảo từ Tân Tây Lan đến Phi Luật Tân, Nam Dương, các đảo ở Tây Polynesia và Ðài Loan, để kết luận rằng người Maori ở Tân Tây Lan đã xuất phát từ tận Ðài Loan và di dân bằng thuyền từ bao thế kỷ trước (3). Hiện nay người thổ dân Ðài Loan (thuộc chủng Malayo-Polynesian), mặc dầu là thiểu số, vẫn còn giữ các phong tục cổ xưa. Ðầu năm 2000, đăng trong tạp chí Nature (11), các nhà khoa học về di truyền ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) đã có những khám phá về nguồn gốc cổ đại con người ở Ireland qua sự nghiên cứu di truyền của các dân Ireland ở miền cực Tây Ireland. Họ cho thấy rằng những người đầu tiên ở Ireland đi từ bắc Tây Ban Nha, vùng xứ Basque, cách đây khoảng 10.000 năm khi thời cuối băng hà (Ice Age) chấm dứt.
Về sự liên hệ tổng quát của các chủng tộc và nguồn gốc của các giống dân, giáo sư Cavalli-Sforza là nhà di truyền học đã có nhiều nghiên cứu sâu rộng nhất. Sự tìm hiểu nghiên cứu về sự liên hệ di truyền của các chủng tộc do các nhà nghiên cứu, Cavalli-Sforza và Lin, thực hiện gần đây (5)(7) đã cho thấy sự di dân của con người từ Phi châu đến Á châu qua Nam Á. Rồi từ đấy có hai nhánh đi khác nhau: một đi lên Ðông Á và Bắc Mỹ và một đi xuống Châu Ðại Dương.
Vừa đây trong ngành di truyền học, có những nghiên cứu về sự liên hệ qua di truyền của các nhóm người ở Trung Quốc để tìm hiểu sự đa dạng và nguồn gốc của các giống dân. Bài nghiên cứu này phân tách rõ hơn quá trình di dân của con người homo sapiens sapiens ở vùng Ðông Nam Á và Ðông Á sau khi đã di từ Phi châu .
Trong bài nghiên cứu của ông Chu, J.Y. và đồng nghiệp đăng trong tạp chí Hàn Lâm Quốc gia (Mỹ) (1), ông đã dùng 28 nhóm bộ mẫu di truyền người từ các tỉnh khác nhau ở Trung Quốc. Mỗi nhóm mẫu này ông dùng khoảng 15 đến 30 vi vệ tinh (microstatellites). Vi vệ tinh là những khúc di truyền DNA ngắn, nằm khắp trong hệ di truyền người (genome), thường được dùng trong phân tích nghiên cứu tiến hóa, vì các vi vệ tinh này có rất nhiều, dễ dùng và chúng được truyền lại theo hệ lý thuyết Mendelian.
Theo thống kê Trung Quốc, thì có chính thức 56 dân tộc khác nhau ở Trung quốc, với người Hán là đông nhất (1.1 tỉ) và 100 triệu các giống dân khác trong đó gần phân nửa sống ở vùng Vân Nam. Người Hoa Bắc và người Hoa Nam, mà biên giới thuận tiện và thông thường được coi như là vùng ở giữa sông Hoàng Hà và Dương Tử, ta đã biết từ trước là khác nhau về di truyền qua các nhóm máu và các dấu (marker) protein nhiều hình thái (polymorphism). Người Hoa Bắc thường cao hơn và mắt nhỏ trong khi người Hoa Nam gần gũi với các loại người phía Ðông Nam Á.
Ông Chu và đồng nghiệp dùng 4 nhóm Hán và 24 nhóm thiểu số, ông cũng thử các mẫu di truyền từ 4 người Ðông Á, 2 người thổ dân Mỹ da đỏ, 1 người thổ dân Úc, 1 Tân Guinea, 4 người Caucasoid, và 3 người Phi với cùng tập hợp (set) vi vệ tinh, như là các nhóm chuẩn đối chứng (control population). Họ tổng kết sự khác biệt về gene qua hai cây hệ di truyền (phylogenetic). Cấu trúc chính của cây giống như các kết quả trước đây dùng các phương pháp cổ điển không dùng phương pháp dấu DNA. Gốc của cây, phân chia theo khoảng cách di truyền, tẻ đôi ra hai nhánh người Phi và không Phi, và tất cả các giống dân Ðông Á tập trung trong một cụm nhóm (cluster). Các láng giềng di truyền gần nhất của nhóm Ðông Á là người da đỏ Mỹ châu, sau đó là thổ dân Úc và Tân Guinea. Những kết quả này phù hợp với thời điểm định cư của người ở Úc (từ 60.000 đến 50.000 ngàn năm trước đây) và ở Mỹ (từ 30.000 đến 15.000 năm cách đây).
Các mẫu (sample) di truyền từ nhóm Nam Trung Quốc được phân loại thống kê trong 3 nhóm nhỏ, gọi là nhóm S1, S2 và S3. Các nhóm này khác nhau về số lượng các dân tộc thiểu số ở vùng Vân Nam trong mỗi nhóm và khác về sự phân phối ngôn ngữ giữa các nhóm. Ðặc biệt chỉ có một nhóm dân nói tiếng Hán Hoa từ tỉnh Hồ Nam (Henan) là nằm trong nhóm nhỏ S2.
Các mẫu của những người từ phía bắc Trung Quốc trong nghiên cứu này được phân loại thống kê vào hai cụm nhóm nhỏ, gọi là N1 và N2. Nhóm N1 gồm 6 mẫu của người nói tiếng Altaic, một mẫu Hán ở phía Bắc Trung Quốc và một mẫu Hán từ Vân Nam. Nhóm N2, gồm các mẫu của 4 dân tộc thiểu số (trong đó chỉ có một dân tộc thiểu số từ tỉnh Ninxia nói tiếng Hoa), là đã được biết rõ từ xưa theo lịch sử là có nguồn gốc từ Bắc Ðông Á. Kết quả không ngờ trong phân tích thống kê khoảng cách di truyền thì nhóm N2 này gần gũi trên cây di truyền với nhóm phía Nam S2. Ông Chu và đồng nghiệp cho rằng có thể những người trong nhóm N2 đã hợp chủng với những giống dân ở phía Nam.
Chúng ta có thể học được và rút ra những điều gì qua công trình nghiên cứu của ông Chu và các đồng nghiệp? Nhất là về nguồn gốc của con người ở Bắc Ðông Á và Nam Ðông Á. Vấn đề nguồn gốc này đã là đề tài nghiên cứu, tranh luận và bàn cãi trong nhiều năm trước đây và hiện nay. Giáo sư Piazza ở Ðại học Torino, Ý, đã dùng kết quả nghiên cứu của nhóm ông Chu để đưa ra nhận xét và làm sáng tỏ những khúc mắc về các vấn đề trên (2). Về nguồn gốc của con người Trung Quốc qua các cuộc khảo cứu của các học giả trước đây, có thể tóm tắt được bằng 3 mô hình.
– Mô hình thứ nhất giả thuyết rằng nguồn gốc của dân Hoa Nam là từ dân cư ở phía Ðông, Bắc Hoa di dân về phía Nam, sau đó hợp chủng với người Australoid (thổ dân Úc và người Papuan) trước đó đã đến định cư ở vùng Ðông Nam Á. Sự hợp chủng này (theo giả thuyết là cách đây khoảng 30.000 đến 50.000 năm trước đây) tạo ra các dân tộc ở phía Nam Trung Quốc.
– Mô hình thứ hai cho rằng dân cư ở Bắc Trung quốc là hậu duệ của dân từ phía Nam đi lên.
– Mô hình thứ ba cho rằng cả hai giống người ở Hoa Bắc và Hoa Nam tiến hóa và phát triển độc lập với nhau từ cuối thời kỳ Pleistocen (khoảng hơn 10.000 năm trước đây).
Mô hình thứ ba phù hợp với tư liệu khảo cổ, là có ít nhất 3 trung tâm độc lập mà nông nghiệp và văn hóa thời đá mới xuất hiện ở Trung Quốc. Những vùng này là một ở phía Bắc (văn hóa Yang-Shao, trung lưu sông Hoàng Hồ, cách đây khoảng 8.000 năm) với các gia súc lợn, chó và mễ cốc (millet) là thức ăn chính. Vùng thứ hai, ở dọc bờ biển phía Nam, kể cả Ðài Loan (văn hóa Ta-Pen-Keng, cũng khoảng 8.000 năm trước đây), mà sản phẩm chính là lúa gạo. Và vùng phía hạ lưu sông Dương Tử (văn hoá Chinh-Lien-Kang, khoảng 1.000 năm sau hai vùng trên), mà lúa gạo được canh tác và lợn, chó được gia súc hóa. Có điều thú vị là sự phân phối địa lý của các nền văn hóa đá mới này trùng với sự phân phối địa lý của các họ gốc Hán ngày nay. Họ của người Hán Hoa, chỉ truyền theo dòng cha, rất tiện lợi và hiệu quả để làm dấu di truyền. Ở Trung Quốc, họ đã có từ thời nhà Hạ (khoảng 2100 – 1600BC), và hầu hết đã có trước những biến động xâm lăng của tộc Hoa từ phương Bắc sau đó.
Sau cùng, mô hình thứ hai chủ trương dân cư ở Bắc Trung Quốc là hậu duệ của dân từ Phương Nam di lên, phù hợp với các dữ kiện di truyền từ kết quả nghiên cứu của ông Chu và đồng nghiệp. Các dữ kiện khác về di truyền, cũng như từ răng, sọ của người cổ cũng ủng hộ mô hình thứ hai này (mặc dù chúng cũng không trái với mô hình thứ ba). Sự khác biệt có thể giải thích là khung thời gian mà 2 mô hình được mang ra áp dụng.
Kết quả nghiên cứu của ông Chu là con người ở Ðông Á là do di dân đến từ Ðông Nam Á (sau đó lên Bắc Á, Mỹ) và một phần nhỏ từ Âu và Trung Á đến. Hình 1 tóm tắt các cuộc di dân đến Ðông Á. Chúng ta cũng biết là một trong những cái nôi cổ của con người ở Ðông Nam Á là di tích ở Hoà Bình. Vậy thì rất có căn cứ và cơ sở là người Hoà Bình đã di dân về phương Bắc và là thuỷ tổ của con người ở Ðông Á (Bắc và Nam Trung quốc). (Cung Ðình Thanh, Tập San TƯ TƯỞNG số 2, bài Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam; số 3 bài Biển Tiến và bài Sự Thuần Hóa Cây Lúa Nước; Số 4 bài Văn Hóa Ðông Sơn).
(Hình 1)
Ông Chu và đồng nghiệp sau đó cũng kết luận là “nguồn gốc con người khởi từ Phi Châu đã cấu tạo nên phần lớn số lượng di truyền của con người ở Ðông Á”.
“… Từ hai cây hệ di truyền với các tâm điểm và giống dân khác nhau, các giống dân từ Ðông Á luôn luôn truy ra từ một nguồn gốc chung duy nhất, chứng tỏ có một thủy tổ chung. Ðiều này không loại ra khả năng có một nguồn gốc con người ở Ðông Á độc lập với con người ở nơi khác, tuy nhiên trong sự nghiên cứu này của chúng tôi không phát hiện hay nhận thấy sự cống hiến về di truyền của giống dân ở Ðông Á cho các giống dân quanh vùng. Vì thế có thể an toàn mà kết luận là nguồn gốc con người hiện đại xuất phát từ Phi Châu, đã cấu tạo nên phần lớn trong hệ di truyền của con người ở Ðông Á. Một cây hệ di truyền với cấu tạo rất khác sẽ được cấu tạo nếu giả thuyết nguồn gốc độc lập (với vùng khác) của con người ở Ðông Á cống hiến lớn lao trong hệ di truyền của các dân tộc ở Á châu hiện nay. Bởi vì phương pháp dùng trong nghiên cứu này chỉ có thể phát hiện ra những cống hiến lớn (major contribution) về di truyền từ các nguồn chỉ định. Có thể sự phân tách dựa vào haplotype sẽ phát hiện ra những cống hiến nhỏ (minor contribution) từ nguồn gốc con người độc lập ở Ðông Á “.
Ðiều này cho thấy sự sai lầm của giả thuyết mà các học giả trước đây ở Trung Quốc cho rằng con người ở Ðông Á tiến hóa độc lập với các nơi khác, bắt đầu từ Homo erectus đến con người hiện nay (Homo sapiens sapiens) (9) có thể là không đúng. Họ dựa vào thuyết tiến hóa đa địa phương (multiregional evolution).
Thuyết này cho rằng con người tiến hóa độc lập với nhau ở các vùng địa phương khác nhau. Thuyết này gần đây đã được cho thấy là sai lạc trong các nghiên cứu về nhân chủng và di truyền đã cho thấy thuyết này là không đúng (6). Trong bài nghiên cứu của ông Krings và đồng nghiệp về người cổ Neandertal ở Âu châu và con người hiện nay cho thấy các chuỗi DNA mitochondial của hai giống người này đều khác nhau. Ông Krings kết luận rằng người Neandertal đã tuyệt chủng và không có đóng góp vào hệ di truyền của con người hiện nay. Con người ở Âu châu hiện nay không phải là hậu duệ của người Neandertal.
Từ cây di truyền trong công trình nghiên cứu của ông Chu, ta có thể giải thích thích đáng nhất là thủy tổ của những người nói tiếng Altaic (Buryat, Yakut, Uyghur, Mãn Châu, Hán, Ðại Hàn và Nhật) ở Ðông Á và Bắc Trung Quốc là cư dân đi từ Ðông Nam Á hơn là từ Trung Á. Ðiều này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Cavalli-Sforza về sự di dân từ Phi châu qua Á Châu và Ðông Á (7).
Ngoài sự khác nhau rõ ràng về di truyền của người Hoa Bắc và Hoa Nam . Sau đây là một phần kết luận của bài nghiên cứu của ông Chu và đồng nghiệp:
“Vì thế, có nhiều cơ sở cho thấy rằng tổ tiên của những dân cư nói tiếng Altaic bắt nguồn từ nhóm dân cư ở Ðông Á đã đến trước đây từ Ðông Nam Á, mặc dầu không thể chối cãi là các dân tộc nói tiếng Altaic hiện nay đã hợp chủng với những dân cư tới muộn hơn từ Trung Á và Âu châu (xem hình 1, những mũi tên nhỏ đậm). Khả năng sự di dân trước hơn nữa ở phía Bắc từ Trung Á đến Tây Bá Lợi Á ( Siberia ) và Ðông Á thì rất hoài nghi vì thời kỳ hậu băng hà bắt đầu lùi đi cách đây chỉ 15.000 năm (xem hình 1, mũi tên gạch chấm).
Bây giờ chúng ta đã thiết lập có cơ sở là dân cư ở Ðông Á đã có các sự cống hiến di truyền từ các nguồn: Ðông Nam Á, Altaic từ Ðông Bắc Á, và Trung Á (hay Âu châu). Sẽ rất là thú vị nếu tính được thành phần cống hiến từ các nguồn trên. Tiếc rằng trong sự nghiên cứu này chỉ gồm đa số là các dân tộc thiểu số. Một nghiên cứu sau này bao gồm tất cả giống dân trên toàn cõi đất nước (Trung Hoa) là cần thiết để biết được hình ảnh về thành phần cống hiến của mỗi nguồn là bao nhiêu phần trăm.
(Hình 2)
Công trình nghiên cứu vừa đây của ông Chu là một bước tiến lớn trong sự hiểu biết về sinh học và văn hóa ở một nơi quan trọng trên thế giới hiện nay.
Tiếp tục công trình nghiên cứu của ông Chu, trong năm qua (1999), ông Li Yin ở Ðại học Standford (5) đã nghiên cứu vùng di truyền ở chromosome 21 ở người và khám phá ra là đúng ra có ít nhất 3 đợt di cư dân từ châu Phi thời tiền sử. Ðợt đầu tiên từ Phi châu đến Nam Á và sau đó Châu Ðại Dương. Ðợt hai từ Phi đến Ðông Nam Á (qua Nam Á), rồi từ đấy chia ra hai hướng đi lên Ðông Á và Bắc Mỹ và đi xuống Châu Ðại Dương. Ðợt ba từ Phi châu đến Tây và Trung Á rồi đi lên Âu châu, Bắc Mỹ và đi xuống Nam Á Ấn Ðộ.
Hiện nay chưa có nghiên cứu di truyền học nào về các dân tộc tại Việt Nam. Dĩ nhiên sẽ có những khám phá lý thú về sự liên hệ giữa người Việt, Mường, Tày, Nùng, Thái, Chàm. Ðó là chưa kể đến những sự kiện ta có thể khám phá về các cuộc di dân ở các vùng trong nước Việt từ nhiều thế kỷ trước qua nhiều đợt di dân xuống phía Nam. Cũng như sự liên hệ di truyền giữa các vùng địa phương ở Việt Nam .
Chúng ta có thể nghiên cứu với kỹ thuật di truyền hiện đại về sự liên hệ giữa các người cổ phát hiện được ở Việt Nam từ Văn Hóa Hoà Bình, thời đại đá cũ, đá mới, và kim khí với con người Việt hiện nay cũng như với các sắc dân khác trong khu vực Ðông Nam Á và Trung Hoa. Những khám phá về sự liên hệ trên sẽ giải đáp nhiều khúc mắc hiện nay trong dân tộc học, ngôn ngữ học.
Phụ lục về di truyền học ở Trung Quốc
Các cư dân sống ở những vùng xa, hẻo lánh hoặc các nơi cô lập ít có tiếp xúc với các giống dân khác là những cơ sở rất tốt và quý giá trong việc tìm hiểu nghiên cứu di truyền vì họ vẫn còn giữ gìn được các căn di truyền chính mà không bị mất hay loãng đi qua hợp chủng với các giống dân khác. Các nước như Iceland , Phần Lan là những “kho dữ liệu” di truyền quý giá mà các nhà khoa học gần đây đã để ý tới và nghiên cứu về sự tiến hóa và các căn bệnh.
Vì các điều kiện địa lý cũng như lịch sử, Trung Quốc cũng có nhiều dân tộc thiểu số sống cô lập ở nhiều vùng hẻo lánh từ Tân Cương đến Vân Nam. Các công ty dược phẩm phương Tây bắt đầu chú ý tới các nghiên cứu về di truyền người và bệnh ở Trung Quốc.
Hai trung tâm nghiên cứu về Dự án toàn bộ hệ di truyền người (Human Genome Project) gần đây đã được chính phủ thành lập ở Bắc Kinh và Thượng Hải. Một trong những chương trình đang thực hiện là bảo toàn các mẫu di truyền (ít nhất là 50 mẫu) cho mỗi dân tộc thiểu số cũng như các nhóm Hán ở Bắc lẫn Nam. Ða số việc thực hiện của chương trình nghiên cứu này là tập trung ở phía Tây Nam của tỉnh Vân Nam. Thủ phủ Côn Minh, nơi có 25 dân tộc thiểu số sinh sống, trở thành trung tâm thử nghiệm lấy mẫu qua Viện Y Sinh học, trực thuộc Hàn Lâm Khoa học Y khoa Trung Quốc.
Trong hai năm vừa qua, chương trình đã thu nhập và bảo toàn nhanh chóng nhiều mẫu di truyền người vì người ta biết rằng hiện nay Trung Quốc tiến nhanh về kinh tế và phát triển. Do đó chẳng bao lâu các nhóm cư dân sẽ lưu động phân tán và qua hôn nhân với các nhóm dân khác sẽ mất đi các nét di truyền đặc biệt. “Cửa sổ cơ hội” vì thế dần dần sẽ biến mất.
Kể từ khi Trung Quốc mở cửa ra bên ngoài từ năm 1979, ngành di truyền học ở Trung Quốc đã đi được một bước dài. Từ từ Trung Quốc đã bỏ đi được di sản của lý thuyết Lysenko chống lại khoa học thực nghiệm di truyền Mendel. Di sản Lysenko đã làm lụn bại nền khoa học di truyền ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa từ thập niên 50 đến 80. Hiện nay Trung Quốc đã thấy được di truyền học và công nghệ sinh học (biotechnology) là ngành kỹ nghệ có tầm vóc chiến lược trong lãnh vực dược phẩm, canh nông, y khoa nên đã hỗ trợ thiết lập các viện, trung tâm nghiên cứu.
Gần đây chính phủ đã ra luật và điều lệ nghiêm ngặt về các công trình nghiên cứu hợp tác giữa trong nước và nước ngoài liên quan về di truyền học. Sự chấp thuận được gắn liền với các điều kiện là sự phân chia tiền bản quyền hay lợi nhuận từ các bằng sáng chế qua các công trình nghiên cứu chung. Vì thấy khả năng thương mại sau này của các công ty công nghệ sinh học trên thị trường nội địa và thế giới, nên chính phủ đã khuyến khích hổ trợ thành lập các công ty khởi đầu như ở phương Tây để tiên phong khai thác thị trường mới này. Hiện nay các công ty phương Tây đã mở dịch vụ công nghệ sinh học và cung cấp thiết bị cho các cơ sở và phòng thí nghiệm ở Trung Quốc.
Do vốn tiếng Anh về sinh học hạn chế nên có thể không chính xác. Mong bạn đọc phản hồi và giúp đỡ nếu sai sót. Xin cảm ơn.
Tham khảo
(1) Chu, J. Ỵ et al Genetic relationship of populations in China, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768 (1998).
(2) Piazza, Ạ Human evolution: Towards a genetic history of China, Nature Hot Topics Asia, Vol. 395, No 6703, 15 Oct. 1998.
(3) Sydney Morning Herald, “Maori ancestors traced to Taiwan”, 11 August 1998.
(4) Dickson, D. Back on track : the rebirth of human genetics in China, Nature Hot Topics, Vol. 396, No 6709, 26 Nov. 1998.
J. Y. Chu