Thời phong kiến ở nước ta đều có quy chuẩn cho các đơn vị và dụng cụ đo lường, nhưng dân gian vẫn dùng theo cách riêng của mình và mỗi nơi mỗi khác, chỉ có lúc thu nạp thuế khóa mới sử dụng hệ thống đong lường của nhà nước.
Khi người Pháp chiếm Việt Nam, nhận thấy sự phức tạp trong phương thức đo lường này, họ muốn thay bằng hệ đo lường tương đối hiện đại, nhưng người dân đã quen dùng cách đo lường cũ. Do vậy họ đặt ra những quy định thống nhất trong việc quy đổi. Ví dụ, 1 giạ lúa ở Nam bộ có giá trị khác nhau ở các địa phương: 35 lít (Mỹ Tho), 38,27 lít (Chợ Lớn), 39,71 lít (Sài Gòn), một số nơi khác thì 42 lít…
Ngày 24.12.1863, Soái phủ Nam Kỳ ra nghị định thống nhất 1 giạ là 40 lít (Nguyễn Đình Đầu, Tạp ghi Việt sử địa). Theo Lịch Annam thông dụng trong Nam Kỳ (1899), chính phủ Pháp ra nghị định ngày 11.02.1898 quy định về việc đong lường ở Nam Kỳ, bắt đầu từ ngày 1.7.1898, ở Nam Kỳ, đều phải dùng đồ đo lường: loại 1 lít, 5 lít, 10 lít, 20 lít, vuông 40 lít.
Cái thùng quan 20 lít. Ảnh: Lê Công Lý.
Các dụng cụ đo lường này làm bằng sắt trắng, có hai quai, giống mẫu để tại phòng ba dinh Hiệp lý, chiều cao và đường kính bằng nhau. Người bán ở chợ phải mua một bộ đầy đủ, nếu trễ một tháng và thiếu một món đồ đo lường thì bị phạt 100 đồng. Mỗi năm đều kiểm sát một lần và đóng dấu kiểm tra.
Dần dần về sau, các phép cân, đong, đo, đếm mới quy về hệ mét, lít và kilôgam như hiện nay. Đặc biệt, ở Nam bộ, hệ đo lường trong dân gian khá phong phú và phức tạp với nhiều kiểu thức khác nhau.
Chuyện cân
Các đơn vị trọng lượng dùng trong mua bán phổ biến là gram, kg, tùy túi tiền, nhu cầu của người mua. Có thể đi chợ mua vài trăm gram thịt, cá, đậu, dừa, bánh, kẹo, trái cây… cho đến vài kg gạo, nếp, đậu, thịt…
Các loại trái cây có hình dáng nhỏ như chôm chôm, bòn bòn, dâu… hoặc loại mắc tiền như sầu riêng xưa nay vẫn dùng kg để mua bán.
Yến bằng 10kg thường được áp dụng để cân các loại củ: khoai lang, khoai môn, khoai mì,… Có nơi, yến chỉ có 6kg (theo Trần Minh Thương).
Tạ bằng 100kg = 10 yến, được tính với hàng hóa có số lượng nhiều như gạo, khoai, bắp, heo… Tạ ta = 100 cân = 60kg, dùng trong mua bán khoai lang, khoai mì… Nhưng 1 tạ heo thì phải đủ 100kg.
Tấn bằng 1.000kg, cũng dùng trong mua bán lớn.
Cân xách và cân đòn. Ảnh Nguyễn Ngọc Minh.
Cân dùng trong mua bán có nhiều loại như cân xách, cân dĩa, cân đồng hồ… Cân tay (cân xách, cân đòn) có gắn móc hoặc dĩa một đầu để treo, đặt hàng hóa. Phía trên có khoen sắt tròn để xách.
Khi cân xách khoen sắt tròn lên và xê dịch quả cân trên đòn cân có khắc độ cho tới khi cân bằng, đọc con số trên đòn cân để biết trọng lượng. Thường dùng để cân những món đồ có trọng lượng nhỏ dưới 2kg. Khi thu mua heo, thương lái dùng loại cân lớn, có thể thọc cây vào khoen sắt cho hai người khiêng, để cân con heo nặng đến 300kg.
Cân dĩa với các loại cục cân.
Cân dĩa cũng theo quy tắc “cân bằng” giữa dĩa để cục cân và dĩa để món đồ. Có các loại cục cân bằng sắt: 50g, 100g, 200g, 500g, 1kg, 5kg. Một số người bán còn thay thế các loại cục cân có trọng lượng nhỏ 50g, 100g bằng bó đinh lớn có trọng lượng tương đương, nhưng độ chính xác sẽ không bằng cục cân. Ngày nay, loại cân này đã rất hiếm ở các chợ, hầu như không còn dùng.
Cân tiểu ly là loại cân nhỏ, nhạy và chính xác để cân vàng bạc, quý kim, dược liệu đắt tiền. Cân có một đòn nằm ngang treo thòng theo hai dĩa nhỏ ở hai đầu. Đơn vị đo là lượng (lạng, “cây”) bằng 37,5g, chỉ bằng bằng 1/10 lượng (“khoẻn”), phân bằng 1/10 chỉ.
Cân ngũ cốc cấu tạo gọn, phần đế nặng. Giữa đế cân là một trục thăng bằng, có vạch và kim thăng bằng. Một bên có giá đỡ để dĩa cân dạng hình bầu dục, hai đầu đĩa thuôn nhọn thuận tiện cho việc xúc các loại hạt, ngũ cốc.
Cân bàn để cân các vật nặng, cồng kềnh, như lúa gạo, nông sản…
Cân đồng hồ xuất hiện vài chục năm gần đây và trở nên tiện lợi. Hiện có các loại cân 2kg, 5kg, 12kg, 20kg, 50kg, 100kg. Trên thực tế có việc gian lận qua việc chỉnh cân để “cân non” (cân thiếu) cho khách hàng, nhất là các xe bán trái cây dọc đường, nhiều khi mua 1kg chỉ còn 600-700g. Còn các bà thu mua ve chai thì lại dùng “cân già” cho có lợi, buộc người bán phải sử dụng cân riêng của mình, có khi là cân sức khỏe.
Cân điện tử.
Các hàng thịt ở chợ hiện nay sử dụng loại cân điện tử, độ chính xác cao, tiện lợi, tính ra được cả giá tiền mặt hàng. Tuy có điều giá hơi mắc, vài triệu đồng một cái cân.
Chuyện đong
Pháp thuộc ở Nam Kỳ, các đơn vị dung tích được quy định lại như sau: 1 hộc = 26 thăng = 71,905 lít, 1 tạ thóc = 68kg, 1 vuông = 13 thăng = 35,953 lít sau lại định là 40 lít, 1 thăng = 2,766 lít, 1 hiệp = 0,1 thăng = 0,276 lít, 1 thược = 0,01 thăng = 0,0276 lít. Đong thóc dùng hộc và đong gạo dùng vuông vì một hộc thóc khi xay ra thì được 1 vuông gạo. 1 hộc thóc cân nặng 1 tạ.
Lít loại 1kg.
Đơn vị đong nhỏ nhất là lon, còn gọi là “lon sữa bò’, loại hộp thiếc đựng 397g sữa đặc có đường của hãng Nestlé (Pháp), cao 8cm, đường kính 7cm. Ngày xưa rất phổ biến với loại sữa “Ông Thọ”, trẻ con hay dùng trong trò chơi tạc lon, làm xe chơi Trung Thu. Nó được dùng để đong gạo thóc, 3 lon bằng 1 lít, 4 lon tương đương 1kg.
Tại miền Bắc, thời bao cấp cũng sử dụng cái lon này để đong lúa, gạo, đậu… để quy ra kg (4 lon), gọi là “bơ sữa bò” hay “bơ bò”. Thương lái thì có kiểu đong ăn gian, 12 bơ sẽ thành 14 bơ. Còn lúc bán lại dùng “bơ non”, cái đáy lõm lên để đong số lượng gạo ít hơn hoặc đong “nhẹ tay”.
1 lít bằng 750g. Cái lít có hình trụ, làm bằng thiếc, đường kính và chiều cao 20cm. Lít dùng đong lúa, gạo, cám hay các loại hàng hóa khác như muối, đậu xanh, đậu nành,… các loại chất lỏng như nước mắm, nước tương, rượu, xăng, dầu, nhớt…
Trước năm 1975, ở miền Nam, khi mua gạo về nấu ở gia đình chỉ tính lít chứ không tính kg như hiện nay.
Lít sét là vừa đúng 1 lít loại hột nhỏ, gạt ngang sát mí vật đong lường. Còn lít vun là đong vun ngọn, có dung lượng hơn 1 lít, chỉ dùng khi đong hột nhỏ như gạo thóc, hột bắp. Khi đong người ta dùng 1 cái ống tre hoặc ống nhựa để gạt lúa gạo cho ngang mặt. Nếu đong ”nhẹ tay” thì vẫn thiếu như thường, ở chỗ khi xúc và gạt. Từ khi chuyển sang cân ký, lít hầu như không còn dùng. Hiện nay, một vài nơi người bán đặt làm cái lít đong vừa y 1kg gạo cho tiện.
1 táo bằng 20 lít, tương đương 1 thùng, gọi là ”thùng quan”. Hai táo bằng một giạ. Táo gạo này đổ ra đựng vừa đầy một thúng. Khi đươn thúng, người ta thường lấy cỡ như vậy và gọi thúng đó là thúng táo (Trần Minh Thương). Ở Nam bộ, chứ nhà nghèo vẫn mua 1 táo gạo để ăn dần.
Dụng cụ đong lúa gạo: 1 lít, 5 lít và 20 lít. Ảnh: Lê Phùng Xuân
Một giạ bằng 40 lít, tức bằng 2 táo, dùng để đong lúa gạo, khoai, muối, cá. Giạ nan được đan bằng nan tre, dày chắc, đáy vuông nhưng miệng tròn, đựng được 40 lít. Có nơi giạ đựng 40 lít vun, có nơi chỉ được 40 lít sét. Giạ được đặt trên cái giá gỗ hình chữ thập để bảo vệ cái đáy khỏi hư mòn.
Giạ thùng xuất hiện khoảng giữa thập niên 1950, được gò bằng tôn, chứa được 40 lít sét (Bùi Thanh Kiên, Phương ngữ Nam bộ ghi chép và chú giải, tập 1). 1 giạ thời Pháp được quy định là 40 lít khi đong gạo nhưng cũng có khi chỉ là 20 lít cho một số mặt hàng.
Nếu lúa tốt, không lép thì mỗi giạ lúa có thể hơn 20kg, nếu lúa lép mỗi giạ lúa chừng 18 – 19kg. Có nơi tính giạ bằng 25 ký. Giạ Tây có hai loại: loại 20 lít (nửa giạ) và loại 40 lít (1 giạ).
Giạ ta 36 lít. Ảnh: Lê Công Lý
Còn giạ ta chỉ có khoảng 36 lít và được đong bằng cái giạ ta hình hộp chữ nhựt thiết diện vuông, gọi là giạ chiếc, còn cái to gấp đôi (cỡ 72 lít) gọi là giạ đôi (theo Lê Công Lý). Ở Trung bộ cũng dùng giạ để đong lúa, gọi là giạ 10, đan bằng tre. Ở Sa Đéc, người ta lại dùng cái gia 42 lít và cái táo 21 lít.
Khi dùng cái giạ, cái táo hoặc cái lít để đong lúa, gạo hoặc tấm, người ta phải dùng thêm cái gạt bằng tre hoặc trúc để gạt, tức làm cho lúa, gạo hoặc tấm trong cái giạ, cái táo hoặc cái lít ngang bằng với miệng cái giạ, miệng cái táo hoặc miệng cái lít. Nhưng đối với cám, cá linh thì người ta đong vun, tức không cần phải gạt. Các mặt hàng như muối, khoai lang, hột gòn… cũng đong như vậy.
Vào mùa cá linh, nhiều người đi mua cá về, mỗi nhà vài ba giạ, để ủ nước mắm với công thức 3 giạ cá, 1 giạ muối. Ở miền Tây, người bán muối thường chèo ghe dọc theo sông rạch, sau khi ngã giá xong, người bán tự đong muối và đội muối lên nhà người mua, dù nhà gần bến hay xa bến cũng vậy, có khi còn phải đổ muối vào lu và khạp giúp người mua nữa (theo Cao Văn Nghiệp).
Trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nguyễn Hiến Lê cho biết về cái “giạ”: “Lớn hơn thùng ngoài Bắc một chút. Đất tốt ở Nam Việt được trung bình 120 giạ một mẫu Tây, đặc biệt lắm mới được 150 hoặc 200 giạ. Ở Bắc Việt, mỗi mẫu ta được trung bình 60 thùng, tức 180 thùng một mẫu Tây, bằng khoảng 150 giạ ở Nam”.
Như vậy, thì 1 thùng ngoài Bắc trên 40 lít. Còn ở trong Nam, khi nói đến thùng là nói đến cái thùng dầu lửa hiệu con sò của hãng Shell, tức nói đến cái thùng có dung tích 20 lít (tương đương với cái táo 20 lít). Một đôi nước = 2 thùng nước = 40 lít nước (theo Cao Văn Nghiệp). Giạ đủ khoảng 20kg, còn giạ già khoảng 24, 25kg.
Miền Tây Nam bộ, nhất là ở miệt vườn như Cái Mơn (huyện Chợ Lách, Bến Tre), các loại hạt cây giống như sầu riêng, trái cốc cũng đong bằng cái táo (theo Võ Hồng Như). Các loại chất lỏng như rượu, nước mắm, nước tương, dầu ăn, mỡ, dấm, xăng, dầu hôi có đơn vị đo là xị, lít. 1 xị bằng 250ml, 4 xị bằng 1 lít.
Cái quặng (cống) để đong chất lỏng.
Đồ dùng để đong lường làm bằng nhựa hoặc nhôm, gọi là “quặng” (phương ngữ Nam bộ, miền Bắc gọi là “phễu”) hoặc “cống” với các đơn vị dung tích: 1/4 xị, ½ xị, 1 xị, nửa lít, 1 lít. Ngày trước còn dùng các loại “cống” bằng tre, tận dụng các mắt của nó để làm. Loại “cống” nhựa chỉ còn dùng mua bán lẻ ở vùng nông thôn hẻo lánh.
Ngày xưa, đong xăng dầu thường dùng cống nhôm nhưng ngày nay không còn sử dụng, đã có các bình nhựa thay thế hoặc bơm thẳng từ cây xăng. Từ chỉ 1 đơn vị đo lường chất lỏng, “xị” trở thành tiếng lóng chỉ “một trăm ngàn”, rồi “1 chai” là 1 triệu đồng! Các loại nhiên liệu như xăng, dầu nếu số lượng ít người ta dùng đơn vị lít, còn trong kinh doanh thì quy đổi ra trọng lượng là tấn, ví dụ 1 xe bồn có trọng tải 8 tấn, 10 tấn, 12 tấn… 1 mét khối xăng dầu là 1.000 lít.
Chuyện đo
Tầm là đơn vị đo chiều dài thời xưa bằng 2,50m. Một công đất có 12 tầm mỗi cạnh, bằng 783,105m2. Tầm điền (tầm quan) dùng chính thức trong đo đạc. Tầm phát dài từ 2,70-3,0m, chủ điền dùng cho công đất để mướn phát, cấy, gặt (Bùi Thanh Kiên, Phương ngữ Nam bộ ghi chép và chú giải, tập 2).
Ở vùng Vĩnh Long, Cần Thơ, 1 công tầm cắt (đo khi cắt lúa) là 2,666m (công 10 # 1.000m2), phân biệt với công tầm điền (công 12 # 1.200m2).
Cao là sào Tây, ký hiệu a, đơn vị đo diện tích đất đai bằng 100m2. Công (cao, sào) là đơn vị đo diện tích có giá trị bằng 1/10ha (1.000m2). Công ta bằng 12 tầm vuông, 489,440.16m2. Miền Bắc và miền Trung gọi là “sào”. Sào Bắc Bộ (15 thước) bằng 360m2, sào Trung bộ (10 miếng) bằng 497m2.
Ở Đông Nam bộ vẫn gọi là sào, nhưng tính là 1.000m2. Ở xã Vĩnh Thành (huyện Chợ Lách, Bến Tre) có ông chủ vườn có đến 10 mẫu trồng măng cụt, rất giàu có, nên có biệt hiệu là “ông trăm công” và dân địa phương gọi đó là vườn của “ông trăm công”.
Hiện nay đất đai đã chia ra cho con cháu, vẫn tiếp tục nghề vườn.
Mẫu ta 10 công ta (150 thước x 150 thước) bằng 4.894,4016m2. Mẫu Tây bằng 10.000m2.
Thước Tàu 2,2 x 38cm. Ảnh: Nguyễn Ngọc Minh
Ở Nam bộ có nhiều loại thước may, đo vải. Thế kỷ 19, người dân sử dụng nhiều loại thước đo vải của người Hoa, thường gọi là “thước Tàu” với các chiều dài: 38cm, 70cm, 70,5cm, 71cm. Trên mặt thước có gạch phân (tỷ lệ) khắc chìm trong gỗ, khảm ốc xà cừ 1 mặt các hình hoa dây, bông thọ, bông mai, bông lựu, đôi bướm (theo Trương Ngọc Tường).
Thước thợ may xưa. Ảnh: Cao Văn Nghiệp
Thập niên 1930, có cây thước ta, hình chữ nhật, dài 71cm (1 thước ta), để may áo, gối. Sau này dùng thước thợ may, dài 5 tấc, hình hơi oval. Thước dây nẹp vải dài 2m, dùng đo may quần áo. Hiện nay là thước hình chữ nhật, dài 50cm, làm bằng mica. Người bán vải dùng cây thước 1m để đo mét vài đầu tiên, sau đó cứ gấp lên nhiều lần đế tính số lượng nhiều.
Thước mộc bằng gỗ, có độ dài bằng một chống cánh chỏ (0,4826m) (theo Taberd), dài 0,44m (theo Aubaret).
Thước nách của thợ mộc làm bằng gỗ, hình tam giác vuông cân, dùng đo góc vuông.
Thước Lỗ Ban
Thợ sắt cũng dùng thước này khi canh ke cửa sổ. Thước Lỗ Ban là loại thước mộc thời xưa dùng để đo kích thước nhà cửa, phòng ốc, đình viện, giường phòng và các loại khí cụ. Hiện nay thước có chiều dài 5m, 7,5m, 10m.
Thước dây thợ may.
Hiện nay sử dụng thước dây dùng đo đất dài đến 50m. Thước lá bằng sắt dài 50, 100cm. Thợ sắt dùng thước kéo dài 7, 10m…
1 thước củi mỗi bề là 1x1m, không tính độ dài khúc củi. Cát, đất, đá, xà bần, gỗ, nước, xăng, dầu thì đo bằng mét khối (m3), gọi tắt là khối.
Chuyện đếm
Các loại cây như tre, tràm, cây gòn, cây vông làm nọc tiêu… trong mua bán đơn vị tính bằng cây. Các loại trái to như như mít, đu đủ, thơm… tính bằng trái, kiểu như bầu, bí 10.000đ/3 trái khá phổ biến trong mua bán hiện nay.
Rau, cải ngày xưa bán bó, cứ bó bó to mà có mức giá quy định. Đồ hàng bông như bắp cải, bông cải thì bán bắp, tức nguyên 1 cái.
Lá chuối tươi, lá chuối khô để gói bánh, gói hàng thì tính theo xấp. 1 xấp có 4 tàu, xé ra thành 8 tờ. Người bán có lòng thì phân ra các loại lá lớn nhỏ khác nhau để theo từng xấp, vì giá khác nhau.
Chuối thì tính quày (buồng), nải. 1 quày có nhiều nải. Nếu bán nguyên quày thì khuyến mãi luôn những nải chót có trái nhỏ không ngon bằng các nải ở phía trên. Dừa nước, trái thốt nốt cũng bán nguyên cả quày hoặc chiết ra bịch để bán lẻ.
Các loại bánh tính bằng cây, bánh in thường 1 cây là một miếng hình chữ nhật, bánh in nhưn đậu xanh 1 cây 10 cái. Banh xà lam xưa cũng 10 cái/cây, nay chỉ còn 6 cái.
Thuốc rê tính miếng, khi bán cho kèm cuộc giấy quyến để vấn thuốc. 1 cây đường cát trắng, đường cát vàng có trọng lượng 12kg, bỏ trong giấy xi măng vàng để bảo quản, khi mua chỉ tính tiền 10kg thôi. Còn 1 cây đường thùng có trọng lượng 22kg, chứa trong thùng nhựa có gợn sóng, luôn luôn là màu đỏ. Đường tán có hình oval, 42 miếng là 1kg. Đường được đóng trong bịch 12 miếng, ngày xưa dùng kho thịt cá, ăn cháo, uống với nước trà đãi khách. (theo Võ Hồng Như).
1 vỉ thuốc Tây có 10 viên, 1 hộp có từ 2-5 vỉ. 1 kết bia, nước ngọt có 20 chai, 1 thùng thì có 24 lon, thùng nhỏ chỉ có 6 lon. 1 gram giấy photo có 500 tờ. 1kw điện bằng 1.000w, gọi tắt là “ký”. 1km bằng 1.000m, dân gian gọi là “cây số”.
Trong khi mâm cỗ, mâm đám cưới ở miền Bắc chỉ có 6 người, thì ở Nam bộ 1 bàn đám cưới có 10, 12 chỗ ngồi.
Rắc rối nhất là cách tính “chục”, nhất là chục trái cây ở miền Tây Nam bộ. Chục dùng để chỉ 10 hoặc trên mười. Chục chẵn/chục mười/chục trơn là đúng con số mười đơn vị hàng hóa.
Bảy với ba, anh kêu rằng một chục
Tam tứ lục, anh tính cửu chương.
(ca dao)
Chục đủ đầu/chục có đầu là chục có trên mười đơn vị, số lượng tùy loại hàng hoặc tùy vùng. Chục 11: khi mua chục thuốc giồng, người bán đưa một xấp 10 rê cột dây sẵn và 1 rê rời gọi là rê đầu. Đối với trái cây thì tính chục gồm 12, 14, 16, 18… đến 24 trái! Trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nguyễn Hiến Lê cho biết, ở tỉnh Tân An, 1 chục trái cây được tính từ 12, 14 cho đến 16 trái.
Tỉnh Long Xuyên và tỉnh Sa Đéc cũng áp dụng cách tính này. Vùng Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp tính chục trái cây 12 (dừa khô, măng cụt, thơm, xoài, trầu…). Bến Tre, Vĩnh Long trước đây, bắp, xoài tính chục 16. Ở Cái Mơn (huyện Chợ Lách, Bến Tre) chục trái cây là 12, nhưng ở Mỏ Cày cũng thuộc Bến Tre lại là chục 14. Trước 1975, ở Cao Lãnh (Đồng Tháp) tính 1 chục 18. Cau ăn trầu tính chục 16 quả.
Ở Sóc Trăng trước đây tính chục 14 trái, sau năm 1975 chục chỉ còn 12. Hiện nay ở Trà Vinh vẫn còn cách tính chục trái cây 12, 14 trái đối với dừa tươi, cam, quýt, cau hay trước đây 1 bó mía vẫn là 12, 14 cây, nay mía cũng được bó lại để cân ký luôn.
Ở Châu Đức (Bà Rịa – Vũng Tàu) hiện nay bắp vẫn tính chục 10 hoặc 12 trái. Còn ở Bình Phước 1 chục bắp có nơi lên đến 16, 18 trái.
Các loại bánh ú, bánh ít, bánh cúng, bánh dừa, bánh xếp… cũng đều là chục 12 cái. Có người để dễ bán họ tăng lên chục 14 cái.
Lố (tá) là chục có đầu, 12 đơn vị hàng hóa, ví dụ như trứng gà, trứng vịt, ly, tách, bàn chải… nửa lố thì 6 cái. Nhưng chén, tô, dĩa, bình thì 1 chục chỉ có 12 cái. Cách tính chục đủ đầu là hình thức ưu đãi cho người mua về bán lẻ, người mua chỉ phải trả tiền cho số chục trơn.
Trăm là số đếm của 1.00, dùng để tính các mặt hàng có số lượng lớn như bánh tráng, gạch, giạ gạo, cây, trái cây…
Thiên là số đếm của 1.000. Trong buôn bán người ta dùng thiên trơn (chẵn 1.000 đơn vị đồ vật).
Thiên có đầu tùy mặt hàng và tùy theo quy định của mỗi địa phương. Một thiên lá xé là một ngàn đôi lá xé làm hai, tức 1.000 tàu lá nguyên. Một thiên có đầu là 1.100 (thuốc rê), 1.200 (dừa khô).
Tiếng đồn con gái Thủ Biên,
Bạc Liêu đi cưới một thiên cá mòi
(Bùi Thanh Kiên, Phương ngữ Nam bộ ghi chép và chú giải, tập 2).
Chỉ duy nhất 1 thiên lúa lại là 100 giạ, nhiều sách vở hay nhầm là 1.000 giạ bởi chữ “thiên” của nó. 1 thiên gạch có 1.000 viên. 1 thiên măng cụt gồm 1.000 trái, loại trái cây có giá trị thứ hai sau sầu riêng. Hiện nay, 1 thiên trái cây chỉ có giá trị là 1.000 đơn vị.
Muôn là 10.000 đơn vị, dùng cho các số đếm lớn như lá lợp nhà, gạch xây dựng… Khi thu mua lúa gạo người ta dùng thẻ đếm, để tính số lượng lúa bán cho lái buôn. Những nhà khá giả có nhiều ruộng ở nông thôn Nam bộ sử dụng ba loại thẻ: cỡ nhỏ (thẻ 1 giạ), cỡ trung (thẻ 10 giạ), cỡ lớn (thẻ 100 giạ = thẻ thiên).
Thẻ tính số lượng gạo để tính số lượng gạo vác từ ghe lên kho nhà máy chế biến lương thực, được chở từ miền Tây lên. Để kiểm soát được số lượng lương thực khuân vác từ ghe lên kho, người chủ ghe dùng thẻ đếm này phát cho các công nhân vác gạo, cứ 1 bao gạo để vác lên thì người chủ kho thu 1 thẻ. Trước 1975, gạo đựng trong bao chỉ xanh, bao dây đay có sọc xanh (100kg, gọi là bao tạ), nay chỉ dùng bao 50kg.
Ít nhất từ thập niên 1960, ở Nam bộ đã phổ biến bàn tính có nguồn gốc từ Trung Quốc, dùng để tính toán, áp dụng cho phép tính cộng trừ.
Bàn tính Tàu (ảnh tư liệu)
Bàn tính có hình chữ nhật, ở giữa có thanh gỗ chia làm hai ô lớn nhỏ. Có 15 thanh sắt nằm dọc theo chiều bàn toán để xâu các con tính vào (các con tính hình khối tròn ở giữa có lỗ). Ở các ô lớn mỗi hàng có 5 con tính, ô nhỏ mỗi hàng có 2 con tính, tổng cộng 105 con tính.
Cách tính: để bàn tính nằm ngang trước mặt, tất cả các con tính đặt về phía cạnh của khung, tính từ phải sang trái (hàng 1 là hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn).
Hàng 1: hàng đơn vị, mỗi con tính là 1 đơn vị tính; hàng 2: mỗi con tính là 5 đơn vị tính, khi 5 con tính đã được sử dụng hết thì thay bằng 1 con tính ở hàng 2 (theo Kiều Đào Phương Vy). Người Việt cũng dùng bàn toán này, nhưng người Hoa dùng nhiều hơn. Hồi tôi học cấp 1, nhà trường có dạy học sinh cách dùng bàn tính này.
Hệ thống đo lường cùng với cách thức giao dịch trong cân, đong, đo, đếm phản ảnh trình độ kỹ thuật, phương thức sản xuất, sản phẩm hàng hóa, cách thức sáng tạo ra các đơn vị tính toán và cả tâm tính, thói quen, đạo đức của người dân Nam bộ trong mua bán.
Qua đây cho thấy rõ sự tiến bộ của công nghệ trong việc định chuẩn các đơn vị đo lường theo hướng ngày càng hiện đại, văn minh và cả văn hóa trong mua bán.
NĐT