Trong suốt 845 năm khoa cử lịch triều, kể từ  khoa thi đầu tiên Minh Kinh Bác Học mở ra năm Ất Mão 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông tới khoa thi cuối cùng năm mậu ngọ 1918 ở Trung Kỳ, chỉ có 5 người được vinh dự mang danh hiệu Tam Nguyên tức đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội và Đình. Đó là các vị Đào Sư Tích, Lê Quí Đôn, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến  Vũ Phạm Hàm.

Danh hiệu khác với học vị. Đỗ đầu một kỳ thi thì được mang danh hiệu “Nguyên”. Đỗ đầu kỳ thi hương là Giải Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Hội là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đình là Đình Nguyên. Học vị là đẳng cấp cao thấp của văn bằng. Thấp nhất là Tú Tài cao hơn là Cử Nhân (dưới triều Lê Trung Hưng là Sinh Đồ và Hương Cống). Thi Hương chỉ đỗ Tú Tài hoặc Cử Nhân, ai đỗ Cử Nhân mới được phép thi Hội ở kinh đô. Nếu đỗ thi Hội, thi Đình thì được học vị Tiến Sĩ. Học vị Tiến Sĩ lại chia ra nhiều cấp khác nhau với ba giáp là đệ nhất, đệ nhị và đệ tam. Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp còn gọi là Tiến Sĩ Cập Đệ chỉ lấy có ba người, cao nhất là Trạng Nguyên (trùm đầu), thứ nhì là Bảng Nhãn (mắt bảng), thứ ba là Thám Hoa (thăm hoa).

Dưới đời nhà Nguyễn học vị Trạng Nguyên bị bãi bỏ, do đó từ năm 1822 trở về sau Bảng Nhãn là học vị cao nhất (dưới triều vua Gia Long chỉ có thi Hương, mãi đến năm 1822 vua Minh Mạng mới mở khoa thi Hội). Thứ đến là Tiến Sĩ Đệ Nhị Giáp còn gọi là Tiến Sĩ Xuất Thân không hạn chế số người, nhiều hay ít tùy theo khoa. Đỗ đầu đệ nhị giáp có học vị là Hoàng giáp. Sau cùng là Tiến Sĩ Đệ Tam Giáp còn gọi là ĐồngTiến Sĩ Xuất Thân (tức là Tiến Sĩ thường). Đến đời Minh Mạng kể từ khoa thi năm 1829 sợ bỏ sót nhân tài nên cho những người trúng cách nhưng không đủ phân điểm được đỗ Phó Bảng. Phó Bảng là học vị cao hơn Cử Nhân nhưng dưới Tiến Sĩ (vua Tự Đức gọi là Tiến Sĩ bất cập hay nôm na là Tiến Sĩ đỗ vớt).

Bảng niêm yết danh sách những người thi đỗ kỳ thi Hương năm 1897

Phân biệt như thế để biết rằng tuy cùng là Tam Nguyên nhưng học vị cao thấp khác nhau. Trong 5 vị Tam Nguyên có 3 vị đỗ đệ nhất giáp còn 2 vị kia đỗ đệ nhị giáp. Người có học vị cao nhất là Đào Sư Tích đỗ Trạng Nguyên, thứ nhì là Lê Quí Đôn  Vũ Phạm Hàm (Lê Quí Đôn đỗ Bảng Nhãn  Vũ Phạm Hàm đỗ Thám Hoa nhưng vì dưới triều nhà Nguyễn không có học vị Trạng Nguyên nên Thám Hoa tương đương với Bảng Nhãn của các triều khác). Trần Bích San và Nguyễn Khuyến có học vị thấp nhất trong năm vị tam nguyên vì chỉ đỗ Hoàng Giáp, tức tam nguyên nhị giáp.

Tam Nguyên Trạng Nguyên Đào Sư Tích

Đào Sư Tích người hạt Tây Chân Cổ Lễ, tức làng Song Khê, huyện An Dũng, Tỉnh Bắc Ninh ngày nay (Theo Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục trang 18).  Năm Giáp Dần 1374 vua Trần Duệ Tông (1374-1377) mở khoa thi Tiến Sĩ, học vị Tiến Sĩ bắt đầu có từ năm này.  Kỳ thi Đình được tổ chức tại hành cung Thiên Trường (thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay).  Khoa này có tất cả 50 người đỗ Tiến Sĩ,  Đào Sư Tích đỗ đầu từ thi Hương đến thi Đình là vị Tam Nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử lịch triều Việt Nam.

Tam Nguyên Duyên Hà Lê Quý Đôn (1726-1784)

Lê Quí Đôn (1) sinh năm 1726 tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường người làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình bây giờ. Ông là con cả Trung Hiếu Công Lê Phú Thứ (1694 – 1781) đậu Tiến Sĩ năm 1724 đời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái thứ 5, làm quan đêán Hình Bộ Thượng Thư.

Lê Quí Đôn nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm 18 tuổi đậu Giải Nguyên, năm 1752 đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên Bảng Nhỡn là vị Tam Nguyên thứ hai lúc mới 27 tuổi.

Lúc đầu Lê Quí Đôn được bổ làm Hàn Lâm Viện Thị Thư vào năm 1753, rồi khi thì làm quan ở các trấn, khi ở trong triều, ông được thăng dần lên tới Công Bộ Thượng Thư vào năm 1784 là năm ông mất. Năm 1760 đi sứ sang Tàu, các danh sĩ Trung Hoa và sứ thần Đại Hàn rất khâm phục sự ứng đối và văn tài của ông. Những bài tựa của các danh sĩ Trung Hoa trong một số tác phẩm của ông đã được viết trong thời gian hai năm đi sứ này (1760-1762). Từ năm 1769 đến 1770 Lê Quí Đôn có công tiễu trừ các đồ đảng của Lê Duy Mật ở Thanh Hoá và Nghệ An. Năm 1775 sung chức Tổng Tài Quốc Sử Quán coi việc tục biên quốc sử với Nguyễn Hoàn. Sau đó ông được cử vào Thuận Hóa làm Tham Thị cùng Bùi Thế Đạt chống nhau với quân Tây Sơn. Ông mất năm giáp thìn 1784 hưởng dương 59 tuổi.

Lê Quí Đôn là một nhà thông thái và bác học về đời Lê mạt. Với kiến văn quảng bác ông trứ thuật và biên tập rất nhiều sách về lịch sử, địa dư và văn hóa. Các tác phẩm gần 80 quyển của ông hầu hết viết bằng chữ nho, thi văn bằng chữ nôm chỉ còn truyền lại một câu đối, một bài thơ, một bài kinh nghĩa và một bài văn sách (2). Các tác phẩm bằng Hán Văn của ông có thể chia làm 5 loại:

Loại 1: các tác phẩm bàn về Tứ Thư và Ngũ Kinh của Nho Giáo

– Dịch Kinh Phu Thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch) gồm 6 quyển.
– Thư Kinh Diễn Nghĩa (Giảng Nghĩa Kinh Thư), gồm 3 quyển, có bài tựa của ông đề năm 1772 và có khắc in.

Loại 2: các tác phẩm khảo cứu về cổ thư:

– Quần Thư Khảo Biện (Xét bàn các sách), có bài tựa của ông đề năm 1757 cùng với Chu Bội Liên (danh sĩ Trung Hoa) và Hồng Khải Hi (sứ thần Cao Ly) đề năm 1761.
– Thánh Mô Hiền Phạm Lục (Chép về mẫu mực các bậc thánh hiền) gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi đề năm 1761.
– Vân Đài Loại Ngữ (Lời nói chia ra từng loại ở nơi đọc sách) gồm 4 quyển, có tời tựa của ông đề năm 1773.

Loại 3: Các Tác Phẩm Sưu Tập Thi Văn:

– Toàn Việt Thi Lục (Chép đủ thơ nước Việt) gồm 15 quyển là một sưu tập thi ca của gần 200 nhà thơ nước ta từ đời nhà Lý đến Hậu Lê, mỗi thi gia đều có phần tiểu truyện. Tác phẩm này ông phụng chỉ của Vua Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 29 để biên tập.  Đây là một tác phẩm rất quí hiếm cho văn học sử Việt Nam.
– Hoàng Việt Văn Hải (Bể văn ở nước Việt của nhà vua), sưu tập các bài văn hay.

Loại 4: các tác phẩm khảo cứu về sử địa:

– Lê Triều Thông Sử (hay Đại Việt Thông Sử) có bài tựa của ông đề năm 1789 trong đó ông cho biết cách thức biên tập bộ sử này.  Chủ ý của ông là viết sử theo thể “Kỷ Truyện” (phỏng theo lối viết của Tống Sử) (3) gồm các phần Đế Kỷ viết theo thể biên niên chép việc vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng (từ 1418 đến 1527).  Sau đó là các phần Chí viết về các vấn đề trọng đại, và phần Liệt Truyện chép tiểu truyện các nhân vật.  Bộ sử này có thực hiện xong như ông đã nói trong bài tựa hay không, chỉ biết hiện nay còn truyền lại các phần Đế Kỷ gồm 2 quyển viết từ năm Lê Lợi khởi nghĩa (1418) đến năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), phần Nghệ Văn Chí gồm 1 quyển chép về sách vở văn chương, phần Liệt Truyện viết về danh thần dưới đời vua Lê Thái Tổ, nghịch thần từ cuối đời Trần đến nhà Mạc và tiểu sử các vua nhà Mạc từ Mạc Đăng Dung trở xuống (1527-1677).
– Phủ Biên Tạp Lục (Chép lẫn lộn về chính trị cõi biên thùy) gồm 6 quyển, có bài tựa của ông viết năm 1767. Bộ sách này chuyên khảo về lịch sử, địa dư, phong tục, chính trị của các tỉnh phía giữa Trung phần ngày nay (Thuận Hóa và Quảng Ngãi).
– Bắc Sứ Thông Lục (Chép các việc đi sứ Tàu) gồm 4 quyển có bài tựa của ông đề năm 1763, chép các công văn, thư từ, núi sông, đường sá, chuyện trò, ứng đối khi đi sứ sang Tàu từ 1760 đến 1762.
– Kiến Văn Tiểu Lục (Chép vặt những điều thấy nghe) gồm 12 quyển ghi chép những điều ông ghi nhận được trong khi đọc các sách về lịch sử hoặc văn minh nuớc ta từ cuối đời Trần đến đời ông.

Loại 5: Các thơ văn do ông sáng tác:

– Quế Đường Thi Tập (các bài đều có chú thích)
– Liên Châu Thi Tập gồm 4 quyển với hơn 400 bài thơ của ông và các bài xướng họa của các thi giaTrung Hoa và Đại Hàn khi ông đi sứ Tàu.
– Quế Đường Văn Tập gồm 4 quyển.

Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San (1838-1877)

Trần Bích San (4) sinh năm 1838, còn có tên gọi là Tam Nguyên Bến Nứa, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Tỉnh Nam Định. Trước khi theo học Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị tên ông là Trần Tằng Tiễu, vì thấy ông văn hay hạnh tốt nên thầy dạy đổi tên cho là Trần Bích San. Năm 1864 ông đỗ Giải Nguyên trường Nam Định lúc mới 26 tuổi.  Năm sau, 1865 vào kinh thi đỗ luôn Hội Nguyên và Đình Nguyên Hoàng giáp. Đỗ đầu ba kỳ thi liên tiếp  như thế gọi là liên trúng tam nguyên, vua Tự Đức ban tên hiệu cho ông là Hy Tăng để so sánh với Vương Tăng đời nhà Tống bên Tàu cũng đỗ tam nguyên liên trúng như ông.

     Tân khoa dự tiệc

Năm 1867 Trần Bích San được bổ làm Tri Phủ Thăng Bình, rồi đổi đi Điện Bàn. Mấy tháng sau được thăng Án Sát tỉnh Bình Định. Năm 1868 ông được triệu về kinh sung chức phó chủ khảo. Vì có lỗi trong lúc làm Án Sát ông bị giáng chức xuống Tri Phủ. Năm 1869 ông lại được vời về triều đảm nhiệm quyền Hộ Bộ Sự Vụ, rồi sau giữ quyền Lễ Bộ Sự Vụ. Năm 1870 Trần Bích San được cử đi sứ Trung Hoa để thương thuyết về việc buôn bán với Hương Cảng. Năm 1872 ông cáo quan về quê chịu tang cha. Hết 3 năm tang, ông trở vào kinh sung chức Đại Lý Tự, rồi Nội Các Sự Vụ. Vài tháng thăng Thị Lang Bộ Lại rồi chỉ ít lâu sau được bổ đi làm Tuần Phủ Hà Nội.

Trong chức vụ này ông thường xuyên có dịp giao thiệp với người Pháp. Có lần Phó Thủy Sư Đô Đốc Dupré ở Sài Gòn ra ghé thăm xã giao ông. Dupré dắt theo một con chó. Ông ra đón Dupré vào công đường. Chủ khách vừa an tọa thì con chó cũng nhảy lên nằm trên ghế đối diện. Ông cho đó là dụng ý của Dupré muốn bỉ mặt mình nên nổi giận phủi áo đứng dậy không tiếp Dupré nữa và sai lính đánh chết con chó.
Năm 1877 có cuộc đấu xảo ở Ba Lê, ngoài việc cử Nguyễn Thành Ý, Lãnh sự ở Sài Gòn đem sản vật sang Pháp trưng bày, vua Tự Đức còn ngỏ ý muốn cử một phái đoàn ngoại giao sang Pháp để tỏ tình hữu nghị.  Dupré ưng thuận nhưng yêu cầu Nam Triều cử Tuần Phủ Hà Nội là Trần Bích San làm chánh sứ. Vua Tự Đức triệu ông vào kinh để trao sứ mạng. Khi biết hành trình phải ghé Sài Gòn nhờ phương tiện đường thủy của Dupré để sang Pháp, e rằng Dupré sẽ trả thù làm nhục lây đến quốc thể mà lệnh vua không thể trái, ông ngán ngẩm sự đời nuốt giấy bản tự vẫn. Thi hài Trần Bích San được đưa về làng Vị Xuyên mai táng, lúc đó ông mới 39 tuổi.

Trần Bích San mất sớm lại thiên nhiều về văn thơ chữ Hán nên chỉ để lại có tập Tam Nguyên Vị Xuyên Thi Tập gồm hơm 100 bài thơ bằng Hán Văn, không thấy có văn hoặc thi phẩm bằng chữ nôm.

Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1910)

Nguyễn Khuyến (5) thường được gọi là ông Nghè Và hay Tam Nguyên Yên Đổ, hiệu là Quế Sơn, sinh năm 1835, trước tên là Nguyễn Tất Thắng, người làng Yên Đổ tục gọi là làng Và (sau này là làng Vị Hạ), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tổ phụ là Nguyễn Mại đậu Tiến Sĩ sung chức Hiến Sát Sứ triều Lê. Thân phụ ông là Nguyễn Lệ đậu 3 khoa Tú Tài, gần 40 tuổi mới sinh hạ ra ông. Từ nhỏ đã rất thông minh và chăm học, nổi tiếng thần đồng. Năm 12 tuổi đã thuộc Kinh Sử, 14 tuổi văn lý đã thông, 15 tuổi đỗ đầu kỳ hạch tỉnh.  Hai năm sau sửa soạn thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà cư tang. Sau đó cửa nhà sa sút túng thiếu lại rủi mấy khoa thi Hương sau đều rớt nên phải đi dạy học để độ nhật. Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị mến tài chu cấp cho ăn học. Năm 1864 đỗ Giải Nguyên trường Hà Nội nhưng năm sau thi Hội trượt, rồi lại hỏng luôn hai khoa nữa nên đổi tên là Nguyễn Khuyến để tự răn mình. Đến khoa thi năm 1871 ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên Hoàng Giáp.

Lúc đầu Nguyễn Khuyến được sơ bổ Nội Các Thừa Chỉ rồi làm Đốc Học Thanh Hóa, tiếp đó được thăng Bố Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ông chính sự cần mẫn, thanh liêm lại có tài thao lược trong nhiều vụ tiễu trừ giặc giã. Một lần ông dâng sớ xin về hưu nhưng vua Tự Đức không chấp thuận, triệu về kinh làm Sử Quán Toản Tu. Năm 1882, Pháp lấy cớ thông thương uy hiếp Hà Nội, ông được cử  làm Thương Biện lo việc giao thiệp và thương thuyết với Pháp. Sau đó sung chức Tổng Đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Tình hình trong nước lúc đó rất nguy ngập, Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883. Năm sau, 1884 vua Tự Đức băng hà triều đình Huế phải ký hòa ước Patenôtre công nhận cho Pháp quyền bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Năm sau, 1885 Nguyễn Khuyến lấy cớ đau mắt cáo quan xin về quê sống đời thanh bần nông thôn. Sau khi bình định các nơi, Pháp tìm cách mua chuộc sĩ phu để thu phục nhân tâm nên ủy cho Hoàng Cao Khải rồi Vũ Văn Báo nhiều lần mời Nguyễn Khuyến ra làm quan nhưng ông nhất định khước từ. Để Pháp khỏi nghi ngờ, ông nhận sự thăm hỏi của phe hợp tác với Pháp và cho con là Phó Bảng Nguyễn Hoan nhận một chức nhỏ. Ông lại giúp người con chấm giải thi Thơ ở Hưng Yên và có lúc phải dạy học trong dinh của Hoàng Cao Khải. Ông mất năm Canh Tuất 1910 hưởng thọ 75.

Nguyễn Khuyến là nhà thơ trào phúng lẫy lừng trong văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ thứ 19. Về chữ Hán, Nguyễn Khuyến có Quế Sơn Thi Tập, về văn nôm ông làm đủ loại, để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm đặc sắc về thi ca, phú, câu đối, hát nói (44 bài thơ đường luật, 2 bài phú, 5 bài hát nói, 1 bài văn tế, 2 bài lục bát và nhiều câu đối)

Tam Nguyên Đôn Thư Vũ Phạm Hàm (1864-1910)

Vũ Phạm Hàm (6), thường được gọi là Thám Hàm, sinh năm giáp tí 1864, người làng Đôn Thư huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông, năm giáp thân 1884 đời vua Kiến Phúc đỗ Giải Nguyên lúc mới 21 tuổi. Năm 29 tuổi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên Thám Hoa năm nhâm thìn 1892 đời vua Thành Thái.

Sau khi đỗ ông được cử vào làm cho Đồng Văn Nhật Báo, rồi được bổ Đốc Học Hưng Hóa, kế tiếp là Đốc Học Ninh Bình, Đốc Học Hà Nội. Sau đó ông được thăng Án Sát Hưng Hóa rồi đổi về Án Sát Hải Dương. Ở Hải Dương vì có sự xích mích với viên Công Sứ Pháp nên công vụ khó khăn phải xin cáo quan về hưu. Ít lâu sau, năm 1910 ông tạ thế lúc mới 46 tuổi.

Vũ Phạm Hàm nổi tiếng có trí nhớ dai và tư tưởng thâm sâu, nhưng tác phẩm của ông không có bao nhiêu. Không thấy ông để lại một tác phẩm nào cả về chữ Hán lẫn chữ nôm ngoài mấy bài thơ chữ nho và một số câu đối.

Chú thích:

(1) Giai thoại về Lê Quí Đôn

Lê Quí Đôn thuở nhỏ thông minh khác thường, mới 2 tuổi đã nhận biết được 2 chữ “hữu, vô”. Lên 5 tuổi bắt đầu học Kinh Thư, học đâu nhớ đấy chỉ một lần là thuộc, lên 6 tuổi biết làm thơ văn. Năm ông 7, 8 tuổi, một hôm có quan Thượng tìm đến thăm cha ông là Trung Hiếu Công Lê Phú Thứ, nhân gặp một đứa trẻ nên hỏi thăm đường. Lúc đó Lê Quí Đôn đang tắm truồng bèn giang hai tay, hai chân ra đố quan Thượng nếu biết được là chữ gì thì sẽ dẫn đường. Quan Thượng thấy đứa trẻ hỗn xược không thèm trả lời. Lê Quí Đôn cười ầm lên chê là chữ “Thái” dễ thế mà không biết. Quan Thượng lúc vào nhà mới biết thằng nhỏ là con bạn mình, muốn thử tài bèn cho gọi ông lên mắng cho một trận rồi bắt phải làm một bài thơ tự trách mình trong đó mỗi câu đều phải có tên một thứ rắn, làm không làm được sẽ bị đánh đòn vì tội hỗn láo. Ông ứng khẩu làm bài thơ nôm “Rắn Đầu Biếng Học”:

Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học chẳng ai tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối
Lằn lưng cam chịu tiếng roi tra
Từ nay Châu, Lỗ chăm nghề học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia  

Một hôm Lê Quí Đôn đến chơi nhà Lý Trưởng thấy trên bàn có quyển sổ biên tên những người thiếu thuế. Ông mở ra coi thấy người thì thiếu năm bảy đấu thóc, người thì vài quan tiền. Ít lâu sau nhà Lý Trưởng bị cháy ra tro, quyển sổ thiếu thuế cũng bị thiêu hủy. Khi gặp ông, người Lý Trưởng than không biết tra cứu vào đâu để đòi tiền. Ông bèn đọc lại từ đầu đến cuối cho chép lại. Người Lý Trưởng chưa dám quyết nhưng đến khi chiếu theo sổ đi thu các món nợ thì đúng cả, không ai than phiền khiếu nại gì, lúc đó mới tin.

Trong dịp đi dạo phố ở kinh đô Thăng Long với bạn, nhân gặp một đám ma đi ngang, người bạn đố ông làm câu đối khóc người không quen. Ông ứng khẩu đọc ngay:

Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thích lẽ đâu mà khóc mướn?
Tưởng sự bách niên dừng nghĩ lại, não can tràng cho nên phải thương vay!

Khi Lê Quí Đôn được cử đi sứ Trung Hoa một danh sĩ Tàu nghe tiếng anh tài nước Nam nên muốn thử. Một hôm mời ông đi vãn cảnh chùa xem văn bia. Chùa này ở cạnh bờ sông buổi chiều nước dâng lên ngập cả bia. Khi ông mới xem xong thì nước thủy triều đã dâng lên phủ lấp không còn thấy bia nữa. Khi về vị danh sĩ Tàu hỏi ông về bài văn bia, ông đọc lại nguyên văn không thiếu một chữ.

Tương truyền khi Lê Quí Đôn đỗ Bảng Nhãn ông cho treo tấm bảng trước cửa nhà với hàng chữ  “Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn” (trong thiên hạ ai không biết chữ nào cứ đến hỏi). Khi Trung Hiếu Công mất có một cụ già từ xa đến điếu tang, yêu cầu ông đem giấy bút ra viết câu đối mà cụ làm để khóc thân phụ ông. Ông vâng lời đem giấy bút chờ viết. Ông cụ đọc:
– Chi
Lê Quí Đôn do dự không biết viết chữ “Chi” nào vì chữ nho có tới mười mấy chữ “Chi” khác nhau. Ông cụ lại đọc tiếp:
– Chi
Lê Quí Đôn đành hỏi:
– Bẩm chữ Chi nào ạ?

Lúc đó ông cụ mới mắng ông là đỗ tới Bảng Nhãn mà chữ Chi không biết viết thì nếu có ai thấy tấm bảng treo trước cửa nhà vào hỏi chữ Chi thì sao? Sau đó ông cụ đọc một hơi nguyên câu đối:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại
Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi?

nghĩa là:

Đâu đâu hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó
Đó đó ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu?

Giai thoại trên có thể do người đời sau đặt ra với dụng tâm răn người có tài không nên kiêu ngạo. Giai thoại trên trái ngược với bản tính của Lê Quí Đôn vốn là người trung thực, khiêm tốn và có lòng nhân. Ông thường hay giúp đỡ bà con họ hàng, bạn bè. Người nào nghèo ông thường tư cấp cho ít nhiều. Nhưng đối với chính bản thân ông lại rất tiết kiệm, thường chỉ mặc áo vải ăn cơm rau. Ông rất thích đọc sách, dù làm quan cao trong triều nhưng đêm nào cũng đọc sách đến khuya mới đi ngủ. Khi về trí sĩ ông cho làm một cái nhà tranh ngoài đề 2 chữ “Cấn Trai” để tỏ ý mình.

(2) Bài thơ “Rắn Đầu Biếng Học” ông làm lúc còn nhỏ, bài Kinh Nghĩa có đề là “Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử” (Về nhà chồng phải kính phải răn chớ trái lời chồng), bài Văn Sách hỏi về câu “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen”.

(3) Cách chép sử của Trung Hoa có 2 loại là biên niên (chép các việc xảy ra theo thứ tự  năm tháng) và kỷ truyện (phần kỷ chép các việc của vua, phần truyện chép liệt truyện các nhân vật). Thể biên niên bắt đầu từ sách Tả Truyện, thể kỷ truyện bắt đầu từ bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên.  Bộ sử này chia ra phần Kỷ viết về các vị hoàng đế, phần Niên Biểu liệt kê năm tháng, phần Thư  chép chính sự, phần Thế Gia chép về công hầu, phần liệt truyện chép về sĩ thứ. Bộ Tống Sử của Thảo Khắc Thác đời Nguyên cũng viết theo thể kỷ truyện gồm Bản Kỷ, Chí, Biểu và Liệt Truyện.

(4) Giai thoại về Trần Bích San

Trần Bích San là người con chí hiếu, khi làm Tri Phủ An Nhơn ở miền Trung thấy địa phương có lụa nổi tiếng, ông thửa (đặt làm) một tấm rồi sai người đưa về Bắc biếu mẹ. Mẹ ông chiêu đãi người mang lụa chu tất rồi gửi lại cho ông một gói đồ. Giở gói ra ông thấy còn nguyên tấm lụa và một cái roi mây. Ông hiểu ý thân mẫu mắng mình là đi xa làm công sai mà dĩ công vi tư. Ông nằm xuống tự đánh mình đủ ba roi rồi hướng về quê Vị Xuyên lạy tạ mẹ (theo di cảo của Hoàng Đạo Thúy 1900-1994, chưa xuất bản).

Năm 1875 lúc Trần Bích San đang làm Tuần Phủ Hà Nội, Linh mục Trần Lục (tên thật là Trần Hữu Triêm) ở Phát Diệm mới được phong làm Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ tới thăm. Trong lúc trò chuyện, muốn thử tài vị Tam Nguyên, Linh mục đưa ra một vế đối nói rằng đã nghe được muốn đối nhưng khó quá, nhân dịp gặp nhà đại khoa nhờ đối giùm. Vế ra như sau:

Ba cụ ngồi một cỗ, cụ đủ điều cụ chẳng sợ ai

Vế ra khó vì có tới 3 chữ “cụ’.  Chữ “cụ” lại có ba nghĩa khác nhau “cụ”  “cụ đạo” tiếng gọi các Linh mục ở miền Bắc, “cụ” còn có nghĩa là “sẵn sàng”, là “sợ hãi”. Ý và lời của vế ra vừa ngạo mạn, vừa ngạo nghễ của người đang đắc thế. Trần Bích San từ chối vì e rằng vế đối khiếm nhã. Linh mục Trần Lục cho là Trần Bích San không đối nổi nên càng nài ép, nại cớ đây là chuyện văn chương “văn hành công khí” không có gì phải e ngại.  Ông bèn ứng khẩu đối:

Một đạo há hai đường, đạo trộm cắp đạo còn nói láo!

Dùng chữ “đạo” đối với chữ “cụ” là tuyệt hay.  Chữ “đạo” cũng có 3 nghĩa như chữ “cụ”“đạo” là cố đạo“, đạo là “con đường”, là “trộm cắp”. Ý và lời mỉa mai kẻ tu hành vượt qua đạo hạnh, xu thời mà còn lên mặt đắc chí.

(Trích một đoạn sử về việc Pháp chiếm Hà Nội lần thứ nhất năm 1873: Sau khi hạ xong thành Hà Nội ngày 19/11/1873, Francis Garnier quyết định đánh chiếm toàn bộ 4 tỉnh châu thổ sông Hồng. Ngày 26/11 Trung Úy Balny d’Avricourt chiếm Phủ Lý, Trung Úy Esmez chiếm Phủ Thường rồi Phủ Bình và Hoài Yên. Hai ngày sau 28/11, Pháp chiếm Hưng Yên không tốn một viên đạn, Bắc Ninh và Thái Nguyên cũng xin hàng. Ngày 4/12 Thiếu Úy De Trentinian dưới sự yểm trợ của tàu Espingole của Trung Úy Balny d’Avricourt hạ thành Hải Dương. Hôm sau, 5/12 Chuẩn Úy Hautefeuille được Linh Mục Trần Lục hướng dẫn xuống chiếm thành Ninh Bình không tốn một viên đạn. Viên sĩ quan này chĩa súng vào màng tang vị quan thủ thành đe dọa nếu không đầu hàng sẽ bắn vỡ sọ. Linh Mục Trần Lục còn tuyển mộ được 150 lính đến giúp Hautefeuille bảo vệ an ninh)

(5) Giai Thoại Về Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến và Trần Bích San là hai học trò xuất xắc của  Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị.  Khoa thi Hương năm 1864, Tam Đăng họp các môn sinh vào dặn dò trước khi thi. Ông dặn Nguyễn Tất Thắng lấy thủ khoa trường Hà Nội, còn Trần Bích San lấy thủ khoa trường Nam Định rồi khi vào kinh thi Hội cố giật cho được Tam Nguyên. Tan ra, Yên Đổ buồn bực than với Trần Bích San. Vị Xuyên trấn an là thường ngày tài mình vẫn kém bạn, sở sĩ thầy nói như vậy là có dụng ý khuyến khích mình mà thôi. Khoa thi Hương năm ấy quả nhiên Nguyễn Tất Thắng đỗ giải nguyên trường Hà Nội, Trần Bích San đỗ giải nguyên trường Nam Định. Năm sau vào kinh thi Hội, Trần Bích San đỗ luôn Tam Nguyên còn Nguyễn Tất Thắng thì trượt. Sau khi đổi tên là Nguyễn Khuyến để tự răn, đến hai khoa sau ông mới đỗ Tam Nguyên. Khi Yên Đổ về thăm thầy, Tam Đăng hội các môn sinh lại và giải thích cho biết văn thơ của Vị Xuyên hàm súc nghiêm mật, còn của Yên Đổ thì tài hoa phóng túng, mỗi người một vẻ không ai hơn ai, nhưng văn cử nghiệp cần nghiêm mật vì thế mà Vị Xuyên đỗ sớm hơn Yên Đổ.

Khi về trí sĩ Yên Đổ sống hòa mình với dân gian ở nông thôn. Gần đến Tết, ông hàng xóm bảo con mang một cơi trầu sang thưa với cụ Tam Nguyên xin một câu đối về thờ ông bà. Người con bưng cơi trầu sang, lúc đó Yên Đổ đứng bên này bờ giậu đã nghe biết. Ông vui vẻ bảo: Bố anh đã làm xong câu đối rồi ta khỏi phải làm. Người con còn đang ngơ ngác không hiểu, ông bảo lấy bút ra chép. Ông đọc một câu đối gần như nguyên văn lời ông bố dặn con:

Kiếm một cơi trầu thưa với cụ
Xin đôi câu đối để thờ ông

Có một anh đi làm bồi cho Tây, khi về làng vênh váo, huyênh hoang ra mặt ta đây. Trời nóng nực xuống sông tắm chẳng may bị chết đuối. Yên Đổ gửi một câu đối viếng như sau:

Hôm nọ sống về làng, mặc áo địa, đi giầy tây, nhởn nhơ ra dáng nhỉ!
Ngày nay chết đầu nước, úp tấm thiên, vùi đất thịt, sâm xoẳn đứt đuôi rồi!

Câu đối mừng ông quan chột mắt mới đậu Phó Bảng võ:

Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi

Câu đối mừng nhà mới của một ông coi chợ (khán thị):

Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa tích tằng xưng tị ốc
Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay được vểnh râu tôm

Đây là một câu đối duy nhất trong kho tàng câu đối nước ta vì vế trên hoàn toàn chữ Hán, vế dưới toàn bằng chữ nôm. Câu đối viếng Tú Xương:

Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn

(6) Giai thoại về Vũ Phạm Hàm

Vũ Phạm Hàm tuổi trẻ đỗ cao nên tự phụ, thí sinh nhiều người đứng tuổi có ý không phục nên khi ra đầu bài thi ông thường dùng điển tích hiểm hóc, ý nghĩa ngoắt ngoéo cốt cho học trò phải phục sự uyên bác của mình.  Có lần ông ra đầu bài văn sách chỉ có 8 chữ ở sách Hán làm cả trường mắc mẹo. Đầu bài ra:

Ngụy du vân mộng, quả chấp tín phủ?

Phép làm văn sách thí sinh phải đưa ra lý lẽ, lập luận ngược lại ý của quan trường. Nhưng việc Hán Cao Tổ giả đi chơi Vân Mộng để bắt Hàn Tín (tạo cơ hội cho Hàn Tín làm phản để bắt) là chuyện có thật không thể cãi là không có được. Thí sinh làm bài đều tìm cách chứng minh là việc Hán Cao Tổ đi chơi Vân Mộng không phải để bắt Hàn Tín.  Ai cũng nghĩ chữ  “Tín” của đầu bài chỉ “Hàn Tín”. Nhưng chữ “chấp tín” có nghĩa là “giữ điều tín” (không phải bắt Hàn Tín).  Đầu đề thực ra có nghĩa là “Việc Hán Cao Tổ đi chơi Vân Mộng có phải là giữ điều tín không?”.  Nhưng đã “ngụy du” thì “chấp tín” thế nào được, “đi chơi giả vờ” thì không cần giữ điều tín nữa vì bài bàn về việc ngụy du Vân Mộng chê Hán Cao Tổ có câu “quân nhân chấp tín, thân nhân chấp trung” (nghĩa là làm quan phải giữ điều tín, bày tôi phải giữ điều trung) dẫn ở Tả Truyện ý nói Hán Cao Tổ bạc đãi công thần là bất tín.

Tài liệu tham khảo:

– Bảo Vân, Giai Thoại Câu Đối, Quê Hương, Canada, 1983.
– Cao Xuân Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục, Lê Mạnh Liêu dịch, Bô QGDG, Sài Gòn, 1962.
– Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Hà Nội, 1944, Bộ Giáo Dục tái bản, Sài Gòn 1968.
– Hoàng Đạo Thúy, Di Cảo (chưa xuất bản), nhật báo Lao Động, 14/2/1997, T/P HCM.
– Lãng Nhân, Chơi Chữ, Cơ sở xuất bản Zieleks, Hoa Kỳ, 1978.
– Lãng Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập, Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn, 1966.
– Lê Văn Siêu, Văn Học Sử Thời Kháng Pháp, Trí Đăng, Sài Gòn, 1974, Xuân Thu tái bản, Hoa Kỳ, 1991.
– Nguyễn Hoàn, Uông Sĩ Lăng, Võ Miên, Phan Trọng Phiên, Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục, Tạ Thúc Khải dịch, Bộ QGDG tái bản, Sài Gòn, 1962.
– Nguyễn Quang Thắng, Khoa Cử và Giáo Dục Việt Nam, Văn Hóa, Hà Nội, 1998.
– Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn, 1962-1966, cơ sở xuất bản Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ.
– Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân, Thanh Niên tái bản, T/P HCM, 1999.
– Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Vĩnh và Thành, Hà Nội 1928, Bộ Giáo Dục tái bản, Sài Gòn, 1971.
– Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945, quyển 1, Văn Hóa, Hoa Ký, 1999.

Trần Bích San

tongphuochiep