Bùi Viện (1839 – 1878) là danh sĩ đời Tự Đức, hiệu Mạnh Dực, người làng Trình Phố, huyện Kiến Xương (nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Ông là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, làm quan dưới triều Nguyễn.

Ai đã cử Bùi Viện đi sứ sang Hoa Kỳ? – Tạp chí Văn Nghệ Thái Nguyên điện tử

Từ thuở nhỏ, Bùi Viện đã theo Nho học. Năm 1864, ông đỗ Tú tài, bốn năm sau mới đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868). Năm sau thi Hội hỏng, ông quyết định ở lại Kinh thành Huế mưu đồ tiến thủ. Năm 1871, được Tham tri bộ Lễ là Lê Tuấn cho đi theo ra Bắc đánh dẹp các nhóm nổi loạn. Trở về Huế, vì biết ông là người có những đề nghị về kinh tế đáng chú ý, Doanh điền xứ Nam Định là Doãn Khuê đã mời ông về giúp việc.

Tình hình Việt Nam lúc bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn, thực dân Pháp đã chiếm xong sáu tỉnh Nam Kỳ, buộc triều đình Huế ký Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), lại lăm le chiếm nốt Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong khi đó, nội bộ triều đình Huế bị phân hóa, phe chủ hòa chống lại phe chủ chiến. Vua Tự Đức và một số quan lại cũng nhận thấy sự cần thiết phải mở rộng giao thiệp với một số nước để khỏi bị cô lập, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước khác để làm giảm bớt áp lực của quân Pháp xâm lược.

Sau đó, vua Tự Đức cử Bùi Viện giữ chức Thương chính Tham biện, kiêm Tuần tải Nha Chánh quản đốc. Nhân đó, ông đề nghị triều đình gấp rút phát triển giao thông đường thủy, đào vét sông ngòi, tổ chức thủy đội, tiễu trừ giặc biển, bảo vệ thuyền buôn, mở rộng giao thông với các nước. Ông đã tổ chức đội Tuần dương quân, đây là một việc làm rất có ý nghĩa về mặt kinh tế và quốc phòng. Ông đã dâng biểu tâu lên vua Tự Đức: “…Việc trị an ở ngoài biển gần đây nước ta tin cậy vào công cuộc hải phòng của một nước ngoài… Chúng ta chỉ có vài chiếc tàu thủy, vừa chậm chạp vừa nặng nề. Giữ được chỗ nọ thì hỏng chỗ kia, vài con voi địch với một đàn hổ, thế dù mạnh đến đâu cũng không thể che chở cho xiết được. Và những tàu thủy lòng sâu bảy, tám thước mà thuyền giặc thì lòng chỉ ba, bốn thước là cùng. Nếu gặp tàu thủy đi tuần thì giặc đã có một cách đối phó rất đơn giản và có hiệu lực vô cùng là chúng tránh thuyền vào những chỗ bể nông, tàu không sao đến được mà bắn cũng không tới…”.

Trước kia, dọc bờ biển nước ta có thiết lập những đội quan phòng, với nhiệm vụ chính yếu là “tiễu giặc ngoài biển”. Thực tế, những đội quan phòng này chỉ làm nhiệm vụ báo động theo kiểu mỗi khi dân làng gặp cướp hay thú dữ thì đem nồi đồng, mâm thau ra gõ để thông tin, đồng thời dọa nạt kẻ địch. Phương pháp đó vừa kém hữu hiệu lại thụ động, chỉ khi nào bọn cướp đã bỏ đi, lúc đó mới chạy ra tiếp ứng.

Bùi Viện đã chỉ ra rằng: Thực ra, từ khi đặt ra đến giờ, những đội quan phòng ở các đồn duyên hoạt động không hiệu quả. Vì chức trách của họ là phòng ngừa giặc biển, mà giặc biển thì hoành hành ở ngoài khơi. Dù họ có biết đích xác là ngoài biển có giặc nữa thì chỉ giương mắt mà nhìn, chứ không có cách gì xoay trở…

Do đó, Bùi Viện quan niệm, đánh giặc phải đánh ngay từ ngoài biển, biến những đội Tuần dương (theo đúng nghĩa đi tuần) thành thủy quân chiến đấu, giảm thiểu trách nhiệm cho các đội quan phòng bằng cách giải ngũ những thành phần yếu đuối, già nua và chỉ giao cho họ nhiệm vụ tổ chức những hải cảng và “hỏi giấy thông hành những người ngoại quốc hoặc bản xứ qua lại các thương cảng”.

Việc thành lập Tuần dương quân được Bùi Viện soạn thành điều lệ, bao gồm lời nói đầu và 20 điều khoản, trong đó, có định ra chế độ lương bổng và cấp bậc, phụ cấp, binh phục, trợ cấp gia binh, các chế độ khen thưởng, xử phạt. Có thể nói kỷ luật mà Bùi Viện đặt ra là kỷ luật thép áp dụng trong thời chiến. Ông đưa ra những trách nhiệm liên đới giữa binh sĩ và người chiêu mộ, vừa chịu tội vừa phải bồi thường công quỹ.

Binh lính mà ông chiêu mộ được chia thành hai loại: Thủy dũng: Là binh lính người Việt tuyển mộ từ các dân chài dọc theo duyên hải có những điều kiện “trí dũng, đức hạnh, bơi lội giỏi, thuộc đường bể, biết trước những lúc có thể xảy ra mưa gió, thông các phép tính”; Thanh đoàn: Là người nước ngoài, kể cả giặc biển được chiêu mộ làm lính trong Tuần dương quân.

Bùi Viện đề nghị lập một đội hỗn hợp bao gồm dân chài (700/1.000) và hải tặc chiêu hồi (300/1.000) có địa bàn hoạt động toàn quốc, nghĩa là thống nhất chỉ huy, địa phương tiếp ứng, có thể tập trung lực lượng để hành quân những trận lớn đối phó với giặc mà không để bị rơi vào thế thụ động như trước. Ông cũng đề nghị chia thành hai loại căn cứ tiếp liệu, gồm các đồn lớn ở hải cảng là căn cứ của đội Tuần dương và các đồn nhỏ ở những nơi hiểm yếu, là nơi liên lạc và hỗ trợ.

Bùi Viện đề cao phẩm chất anh hùng hảo hán, trọng dụng những người có lòng tự trọng, có kỷ luật nghiêm minh, khiến cho tất cả quan binh đều có cảm nhận ông là một thủ lĩnh kiệt hiệt, gần gũi với họ hơn là một quan văn thư sinh. Hết lòng với anh em, chia sẻ vui buồn, đụng trận xông ra trước, ông đã áp dụng đúng mức đạo làm tướng mà cổ nhân thường đề cao.

Bên cạnh đó, Bùi Viện còn quan tâm đến chính sách đối với quan binh, ông đưa ra những tiêu chuẩn tuyển mộ và trọng thưởng những ai tìm được người để tuyển mộ vào thủy binh. Điều chính yếu ở đây là, những người tình nguyện chứ không phải bị cưỡng bách và không phải bất cứ ai cũng có thể gia nhập Tuần dương quân mà phải hội đủ một số điều kiện nhất định. Ngoài ra, những người đó phải có lý lịch tốt, được thân thuộc và lý dịch bảo đảm.

Tuần dương quân của Bùi Viện tuy còn non trẻ nhưng đã sớm lập được một số chiến công. Tháng 4/1878, Tuần dương quân đã giao chiến với giặc cướp biển ở Hà Tĩnh, dùng hỏa công đốt tàu địch khiến chúng phải chạy trốn, tịch thu một chiến thuyền cùng lương thực, đạn dược và bắt được 18 tên cướp. Đến tháng 5 năm đó, Tuần dương quân lại giao tranh với hải tặc ở vùng biển Thanh Hóa, trong khi chúng đang cướp một tàu buôn.

Nhờ hai chiến công đó, dân chúng cảm thấy yên tâm làm ăn, buôn bán hơn, các thương cảng trở nên sầm uất, tàu thuyền ra vào ngày một nhiều. Trên bộ, Bùi Viện cho xây lại những pháo đài, bố trí súng đại bác để canh phòng mặt biển. Dựa vào những điều khoản của Hòa ước Giáp Tuất (15/3/1874), ta phải mở cửa các thương cảng Quy Nhơn, Hải Phòng và Bùi Viện đã tiến xa hơn một bước là mở các chi điếm ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam.

Ngoài ra, ông cũng muốn biến Thuận An thành một trung tâm thương mại để tăng thêm vị trí của đất kinh đô, nên tổ chức một Chiêu Thương Cục, vừa là đại bản doanh cho Tuần dương quân, vừa là nơi giao lưu hàng hóa có tính quốc tế, mở đầu cho việc du nhập văn minh trực tiếp vào đất đế đô…

Việc tổ chức Tuần dương quân đã góp phần đảm bảo yên ổn việc vận tải đường biển, tăng cường khả năng phòng thủ vùng biển, phát triển việc buôn bán trong Nam ngoài Bắc và đẩy mạnh việc thông thương buôn bán với nước ngoài.

TH/ST