Học giả Trần trọng Kim cũng như nhà viết sử Phạm văn Sơn đều có nhận xét: Người Việt hình dáng nhỏ hơn người Tàu, rắn chắc chứ không béo, mắt xương, trán cao và rộng. Dáng điệu đi đứng lẹ làng nhưng vững vàng chắc chắn.

Đó là hình dáng, cử chỉ nhưng về tính tình và tư tưởng là những vấn đề rất bao quát, phức tạp cần phải trình bày cặn kẽ hơn.

Sống cạnh Trung Hoa, một dân tộc khổng lồ về dân số và diện tích đất đai lại có sức bành trướng và đồng hoá mạnh mẽ nhưng dân tộc chúng ta vẫn tồn tại là điều thắc mắc của các nhà nghiên cứu trên thế giới từ trước đến nay.

Từ một khu vực nhỏ bé ở phiá tây bắc lưu vực sông Hoàng Hà, người Trung Hoa xâm chiếm và đồng hóa các dân tộc khác như Mãn châu, Mông Cổ, người Kim và những sắc dân ở phía Đông, Nam nhưng phải dừng lại ở biên giới nước Việt. Vân Nam mới bị đồng hoá cách đây hai, ba trăm năm, sau Đệ nhị Thế Chiến (1945) là Mãn châu và hiện nay là Tây Tạng. Xin lưu ý quý độc giả: người Trung Hoa kêu các sắc dân không thuộc giống Hán ở phiá nam là Bách Việt. Chữ bách không hẳn là 100 mà là nhiều; chữ Việt là xa, không phải là giống dân Việt như người ta thường hiểu lầm.

Từ xưa đến nay những học giả và sử gia Việt nam cũng như một số nhà nghiên cứu người Pháp ở Trường Viễn Đông Bác Cổ Hànội lệ thuộc vào sách vở Trung hoa cổ cho rằng chúng ta thuộc nhóm dân mà người Tàu gọi là Bách Việt sinh sống ở phía nam sông Dương Tử và cùng với tất cả người Chàm, Cao Miên, Đài Loan, Phi luật Tân, Nam Dương…. đều xuất phát từ phía bắc sông Hoàng Hà (Trung hoa) tiến về phía đông và nam. Như vậy mới đúng với truyền thuyết lập quốc của họ rằng khởi thủy con người được tạo dựng tại lưu vực sông Hoàng và do một Thiên Tử (con trời) cai trị muôn dân đóng đô ở Trung Hoa nên tất cả các dân tộc trên thế giới phải qui về mà triều phục. Hai tiếng Trung Quốc hay Trung Hoa là do ý nghĩa đó.

Bác sĩ Trần ngọc Ninh trong bài Xã Hội và Văn Hóa Thái Cổ VN viết năm 1971 cũng theo thuyết ấy nhưng 30 năm sau, trong quyển Tuyết Xưa xuất bản năm 2002 (trang 190 và 196) dựa theo những khám phá mới về nhân chủng học ông bác bỏ thuyết cũ và ghi nhận con người đã có ở đông Phi Châu từ 2 triệu 500 năm nay. Nhưng những khám phá mới nhất gần đây cho rằng con người đã hiện diện ở Đông Phi Châu cách nay 3 triệu 600 ngàn năm rồi từ từ tiến lên miền Trung Đông và phân thành 2 nhánh, một tiến về phía tây thành người Âu châu, một tiến về phía đông tới Nam Á và Trung hoa. Sự khác biệt màu da, vóc giáng là do thổ nhưỡng, khí hậu và thực phẩm tạo nên.

Tiến sĩ Sử học Lê mạnh Hùng trong cuốn Nhìn Lại Sử Việt doTổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ in năm 2007 đưa ra những bằng chứng về cổ nhân chủng học, cổ ngôn ngữ và phong tục học cho thấy ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Mã liên tục có người ở khoảng 50 ngàn năm trước. Thời kỳ tối cổ này sắc dân da đen Australoid và Melanesian có quan hệ mật thiết với sắc dân Aborigin (thổ dân Úc châu) sinh sống ở vùng Đông Nam Á. Cách nay khoảng 7 ngàn năm, qua khoa khảo cổ nhân chủng học, ngườt ta thấy ở miền Bắc Việt Nam có sắc dân gốc Nam Đảo (Austronesian) xuất hiện và sau đó, ít nhất cũng hơn 4 ngàn năm, người ta tìm thấy một chủng tộc mới sinh sống trải dài từ Vịnh Bangal Ấn Độ tới vịnh Bắc Việt, tức từ vùng Assam Ấn Độ qua Bangladesh, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Camputia, Lào và Việt Nam. Người ta gọi chủng tộc này là Nam Á, đó là tổ tiên gần nhất của chúng ta. Ngôn ngữ của chúng ta phát xuất từ ngôn ngữ cổ Nam Á; tín ngưỡng, phong tục tập quán giống như các nước Đông Nam Á: “… tục thờ vật tổ (rồng tiên) (totemism), phiếm thần (animism) ; về phong tục như nhuộm răng đen, ăn trầu, tục xâm mình. Ngay cả những nghi thức về hôn nhân, tang tế cũng như những ngày lễ hội (hội nước). Điều này cho thấy dân tộc Việt Nam hồi đó nằm chung trong một quần thể dân tộc Đông Nam Á. Ngay cả huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ trong truyền thuyết dựng nước của Việt Nam cũng có những nét tương tự như truyền thuyết dựng nước của Phù Nam với chàng Kaundinya từ biển đến và lấy nàng công chúa Liễu Diệp để dựng lên đất nước Phù Nam”(Lê Mạnh Hùng, Nhìn Lại Sử Việt trang 61).

Với khoa di truyền học (Gène hay DNA) phát triển, chỉ ít lâu nữa người ta sẽ xác định rõ ràng vấn đề chủng tộc của tất cả các sắc dân sống trên thế giới.

Chúng ta trải qua sự đô hộ hơn một ngàn năm (111 trước Tây lịch đến 939 sau TL.) của người phương bắc với những chính sách đồng hoá tinh vi về văn hoá như truyền bá đạo Khổng, đạo Lão hoặc cứng rắn, thô bạo như thu hết sách vở của người Việt, bắt bím tóc, bắt ăn mặc như người Tàu… và bao nhiêu những chính sách tàn bạo như chém giết, tù đày, bắt xuống biển mò ngọc trai, lên rừng săn tê giác cho thú dữ ăn thịt để diệt chủng nhưng dân tộc chúng ta vẫn tồn tại, vẫn giữ được nền văn hoá riêng của mình và vươn lên mở rộng bờ cõi về phương Nam.

Nhiều người rất thắc mắc không hiểu vì lý do nào một dân tộc nhỏ bé lại chặn đứng được vó ngựa của đoàn quân Hung Nô đã từng tung hoành từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây. Đế quốc Mông Cổ thời ấy thâu gồm từ Nga bên bờ Bắc Băng Đương tới các nước Âu Châu bên bờ Đại tây Dương; Á châu gồm Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư (Iran)….

Tại sao người Việt không bị người Tàu đồng hoá như người Kim, người Mông, người Đột xưa kia và người Mãn Châu mới đây?

Chưa có câu trả lời nào thoả mãn câu hỏi đó. Sau đây chúng tôi chỉ xin đưa ra những ưu điểm của người Việt. Những ưu điểm này theo thiển nghĩ là những yếu tố giúp cho dân tộc chúng ta đủ khả năng tự đề kháng và tồn tại trước những âm mưu đồng hoá của Trung Hoa và sau này là của Pháp.

Tình thương yêu và bảo vệ nòi giống của người Việt rất cao, họ coi tất cả mọi người là anh em như cùng một cha mẹ sinh ra. Huyền thoại con Rồng cháu Tiên làm người Việt tự hào về dòng dõi cao quí của mình và câu chuyện một mẹ sinh trăm con cho người ta biết tất cả mọi người trong nước là anh em ruột thịt, cùng một dòng giống nên phải thương yêu nhau, đùm bọc, bảo vệ nhau. Từ tinh thần ấy, người Việt gọi nhau là Đồng Bào, có nghĩa là cùng trong một bọc do cùng một mẹ sinh ra.

Nên ngay từ buổi đầu dân tộc chúng ta đã sớm có những câu tục ngữ, ca dao là những lời kêu gọi, nhắc nhở lòng yêu nước, nhắc nhở bổn phận đối với giống nòi còn lưu truyền tới ngày nay:

– Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

– Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

– Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Hay:

– Giọt máu đào hơn ao nước lã.
– Máu chảy ruột mềm.

– Chị ngã em nâng.

Lúc bình thường những câu ca dao kể trên là những lời khuyên bảo, dạy dỗ, nhắc nhở lòng yêu nước. Nhưng trong cơn nguy biến, giống nòi bị tai họa xâm lăng, những câu ấy trở nên những lời hiệu triệu lòng yêu nước hay những bản hịch xuất quân.

Có người cho rằng câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng” xuất hiện vào thời Hai Bà Trưng. Đó là lời kêu gọi phát ra từ dân chúng hay đó là lời hiệu triệu của hai vị nữ anh hùng dân tộc? Chúng ta nhớ lại vì quan quân nhà Hán cai trị tàn bạo nên khi ngọn cờ đào được Hai Bà phất lên thì từ khắp nơi 60. 000 anh hùng hào kiệt tự nguyện tụ về và chỉ trong vài tháng muôn dặm nước non Hồng Lạc thu hồi độc lập. Thời ấy dân tộc ta dân số có khoảng 900 ngàn người mà có tới 60 ngàn nghĩa sĩ qui về trong khoảnh khắc thì lòng yêu nước cao tới nức nào. Cũng vì lòng yêu nước, yêu nòi giống mà TướngTrần bình Trọng “Thà làm qủi nước Nam không thèm làm vua nước Bắc”, anh hùng Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông biết trước cuộc khởi nghĩa chống Pháp thất bại nhưng vẫn làm, hàng trăm người hiên ngang chọn lấy cái chết để nêu gương và chuyển tiếp lòng ái quốc cho các thế hệ sau.

Đọc lịch sử Việt trong thời bắc thuộc dân tộc ta có biết bao cuộc nổi dậy chống xâm lăng, người này thất bại người khác đứng lên.

Sách vở thường chỉ ghi lại những cuộc nổi dậy chống ngoại xâm của bà Trưng, bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng… mà không ghi những cuộc nổi dậy nhỏ khác không đạt được kết quả lớn lao nhưng chứng tỏ người Việt không bao giờ chịu khuất phục trước trước kẻ thù.

Chúng ta hãy xem kể từ năm 100 sau Công Nguyên đến năm 184, trong 84 năm ấy có tất cả 6 cuộc khởi nghĩa, trung bình 14 năm một lần làm cho kẻ thù phương bắc khó lòng đồng hoá nổi người Việt. Đặc biệt cuộc khởi nghĩa năm 136 bắt đầu ở Huyện Tượng Lâm rồi bùng lên ở Giao Chỉ, Cửu Chân chấn động kinh đô Lạc Dương bên Tàu. Nhà Hán định cử 40 ngàn quân đi đánh dẹp nhưng thấy khó thắng đành phải hòa giải (Lê Mạnh Hùng: Nhìn lại Sử Việt, trang 130).

Trong 80 năm Pháp đô hộ (1864-1945) cũng vậy, những cuộc khởi nghĩa liên tục xẩy ra nào Nguyễn trung Trực, Thiên hộ Dương, Hàm Nghi, Duy Tân, Phan đình Phùng, Nguyễn thiện Thuật, Đề Thám, Tăng bạt Hổ, Trần qúy Cáp, Lương ngọc Quyến, Nguyễn Thái Học… làm người Pháp không mấy khi được yên ổn để bóc lột dân bản xứ.

Sử sách Tàu thời xa xưa ghi lại rằng khi quân xâm lược đến, người Việt chạy tản mát vào rừng rồi từ từ họ tổ chức đánh trả. Và dù có phải tạm sống dưới sự cai trị của kẻ xâm lăng người ta cũng không bao giờ chịu khuất phục. Họ luôn luôn tìm cách chế nhạo và chống đối ngấm ngầm.

Thời bắc thuộc có rất nhiều câu ca dao phản kháng, chống đối còn để lại tới ngày nay:

– Băm bầu, băm bí, băm chị thằng Ngô, băm cô cái ả.

Đó là lời nguyền rủa quan quân nhà Ngô thời Tam quốc sang cai trị nước ta. Cái ả đây là những cô gái ham tiền, ham lợi đi lấy chồng Tàu:

– Thằng Ngô con đĩ,

– Tham giàu lấy phải thằng Ngô,
Đêm nằm như thể cành khô chọc vào.

Thời Pháp thuộc cũng vậy:

– Anh đấng làm trai nam nhơn chí khí,
Em đấng làm gái em chẳng biết suy:
Lấy Tây, lấy Chệt làm gì?
So bề nhân ngãi ai bì An Nam.

Chẳng những kẻ đi lấy kẻ thù của dân tộc bị chửi rủa mà cha mẹ, họ hàng cũng bị đồng bào chê bai, khinh ghét.

Tình thần chống đối ngoại xâm và bảo tồn nòi giống rất mạnh đã có từ ngàn xưa rồi. Nhờ vậy mà chúng ta vẫn giữ được dòng máu Việt, tiếng Việt, Văn Hoá Việt dù trong hoàn cảnh khó khăn nào.


II- Tổ Chức Gia Đình Việt Nam :
 Gia đình người Việt được tổ chức rất chặt chẽ, gắn bó nhờ lòng tôn kính, tình thương yêu và sự hy sinh vô bờ bến cho nhau. Trên hết là tổ tiên được tôn thờ, ông bà cha mẹ được kính trọng. Con cái phải vâng lời cha mẹ, em phải vâng lời anh chị.

Nếp sống tôn ti, trật tự ấy được biểu lộ qua ngôn ngữ dùng để qui định rất tỉ mỉ, rõ rang vị trí (vai vế) của mỗi người trong gia đình và rộng hơn là trong gia tộc. Hàng ông bà có ông bà nội, ông bà ngoại; hàng cha mẹ có cha mẹ ruột, cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ; hàng con có con ruột, con dâu, con rể; cháu có cháu nội, cháu ngoại, chắt…; ngang với cha mẹ có bác, chú, cậu, mợ, cô dì, thím. So ngôn ngữ dùng trong gia đình thì tiếng Anh hay tiếng Pháp không chỉ định rành mạch bằng tiếng Việt. Thí dụ cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng họ dùng father-in-law hay mother–in-law (Pháp: bau père hay belle mere), chú, bác tức anh hay em của bố, mẹ đều là uncle (oncle), cô, dì, mợ, thím là aunt (tante). Nếu chúng ta nghe người Mỹ nói “my aunt “ (Pháp: ma tante) chúng ta không biết họ nói về cô, dì, mợ hay thím của họ. Ngoài ra, sự xưng hô trong gia đình hay họ hàng người Việt rất tôn ti và đúng phép, không thể dùng tôi (tao), mày tức “ngộ – lị “ như người Trung Hoa, “me – you” như người Mỹ, “moi – toi” như người Pháp…dùng như vậy đối với người Việt là hỗn xược, bất kính đối với người trên hay bất nhã với người ngang hàng.

Đối với người trên khi nói chuyện phải có tiếng “thưa” đi trước mới lễ phép như thưa ông, thưa bà, thưa cha, thưa mẹ, thưa chú, thưa bác…, với anh hay chị thì xưng em. Đặc biệt trong gia tộc có những người hàng anh chị, thậm chí vai cha chú hay ông bà lại nhỏ tuổi hơn những người ở vai em hay con cháu. Lắm khi những người này còn bế ngửa hay vài ba tuổi nhưng người dưới dù tóc trên đầu đã bạc vẫn phải theo tôn ti mà cư xử, xưng hô bằng anh, chú, bác, cô, chị…cho phải đạo. Điều này khác với người Tàu, anh em con chú, bác ai nhiều tuổi hơn thì được là anh.

Trong dòng họ, theo phong tục người trưởng họ theo cha truyền con nối là cao hơn hết. Ông ta ngoài việc phụng thờ tổ tiên, giữ gìn ruộng vườn hương hoả còn đóng vai trò một quan toà trong việc phân xử những tranh chấp, bất hoà giữa những người trong gia tộc trên tinh thần hoà giải, hay thi hành kỷ luật với những phần tử phá hoại gia phong, xúc phạm đến ông bà, tổ tiên. Những tranh chấp trong gia tộc mà người trưởng họ hay cao hơn là Hội Đồng Gia Tộc không hoà giải được mới đưa vụ việc ra trước cửa quan. Đó là một chuyện xấu xa người ta không muốn xẩy ra không những vì gây chia rẽ, thù hằn gữa những người trong dòng họ mà còn gây tiếng xấu chung vì bị người ngoài chê cười. Nên chuyện kiện tụng giữa những người trong cùng một họ ít khi xẩy ra.

Trong gia đình thì quyền hành được thi hành tuyệt đối, đó là tập trung trong tay cha mẹ. Theo đạo Nho, người chồng là chủ gia đình, là sở hữu chủ không những tất cả của cải mà cả tính mệnh của vợ con. Người chồng có thể bán vợ, cho vợ, bỏ vợ không cần lý do, nhất là các loại tì thiếp thì còn tệ hơn nô lệ; đối cới con cái, người cha có thể bán, đánh đập hay giết chết mà không bị ghép tội.

Phong tục Việt Nam khác hẳn, người vợ cùng với chồng là sở hữu chủ tài sản chung. Hơn thế nữa, người vợ theo tập quán nắm giữ tiền bạc và lo việc mua bán trong gia đình. Chỉ những khi chi tiêu lớn như mua nhà cửa, ruộng đất, tậu trâu bò thì mới cần có quyết định của người chồng. Nếu chẳng may người cha chết thì người mẹ nắm quyền chủ gia đình trong việc dạy bảo, định đoạt việc dựng vợ gả chồng, phân chia tài sản. Con cái có bổn phận phải tuân theo, không được trái lời. Với người Trung Hoa thì trái hẳn, chồng chết người vợ phải lệ thuộc vào con : “ Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử “(ở nhà thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con ).

Nếu cả cha lẫn mẹ đều mất sớm thì quyền ấy thuộc về ngưới anh hay chị lớn, các em có bổn phận phải nghe theo và trong anh chị em người nào sanh sau phải nghe lời người sanh trước theo tôn ti trong gia đình.

Nhìn vào hình thức tổ chức thì thấy cá nhân người dưới bị áp chế nặng nề nhưng thực tế cha mẹ hay người anh, người chị ít khi dùng quyền hành để đàn áp người dưới. Mọi sự đối xử đều đặt trên tình thương yêu và quyền lợi chung hay lợi ích của những cá nhân trong gia đình. Do đó một gia đình phải hiểu là một toàn thể, một khối hợp nhất mọi người hoà tan vào đó tạo thành. Vì thế mà cha mẹ yêu thương, hy sinh cho con cái; anh chị hy sinh cho các em không nề hà điều gì kể cả bản thân của họ và ngược lại con, em cũng vậy. Có những người chị vì cha mẹ mất sớm lo nuôi nấng, xây dựng gia đình cho các em xong thì đã lớn tuổi không còn lập gia đình được nữa đành chịu lỡ thì ở vậy suốt đời. Nên chúng ta thấy gia đình Việt Nam không phải do những cá nhân cộng lại như: 2+1 = 3 theo quan niệm của người phương Tây mà 2+1 hay 2+10 cũng chỉ là MỘT mà thôi. Tinh thần gắn bó ấy được diễn tả qua câu ngạn ngữ: “Thà chết một đống hơn sống một người”.

Vì gia đình và tôn tộc được tổ chức chặt chẽ như vậy nên người ta bảo vệ được truyền thống của gia đình, dòng họ. Những ảnh hưởng bên ngoài bị chặn ngay tại trước cửa với câu : ”Nhập gia tùy tục”, những người đến với họ phải phải theo nề nếp có sẵn của họ.

Do đó chúng ta thấy không dễ cho những phong tục, tập quán hoàn toàn xa lạ từ Trung Hoa hay từ Pháp lọt được vào gia đình, xã hội Việt Nam nói gì đến chuyện đồng hóa.

III – Tổ Chức Xã Thôn Việt Nam : Sở dĩ chúng tôi đề cập đến tổ chức xóm làng vì xã thôn đóng một vai trò rất quan trọng, như một thành lũy, trong việc bảo tồn văn hóa, nuôi dưỡng tâm tình người Việt. Có thể nói từ một gia đình nhỏ người Việt mở rộng thành một gia đình lớn hơn là làng xã, trong đó mọi người chung sống như một gia đình, cũng có bàn thờ trang trọng chung thờ thành hoàng (thần làng), có tài sản chung, phong tục tập quán chung, ai đáng cha kêu cha, ai đáng chú kêu chú, ai lớn tuổi hơn là anh chị…. Ngược lại, những người đáng tuổi cha, chú, anh chị phải coi người dưới là con, em mình. Mọi người sống có tôn ti, trật tự, yêu thương, tương thân tương ái, đùm bọc nhau khi có người gặp hoạn nạn.

Những tiếng bác Hai, bác Ba, thím Tư, thím Bảy…để kêu người trên trong làng xóm một cách kính trọng như cha, chú của mình. Những tiếng con Sáu, con Tám, thằng Tư…là tiếng những người có tuổi kêu người dưới một cách thân mật như con cháu.

Xã hội và làng xã Việt Nam không có giai cấp qúy tộc và thứ dân, không có giai cấp địa chủ và nông nô như xã hội phương Tây trước kia. Nếu người nghèo không có ruộng đất riêng thì cũng được làng xã chia công điền, công thổ để làm ăn. Mọi người có cơ hội đồng đều trong cuộc sống. Do đó người nghèo không bị miệt thị vì thực tế cho biết “ Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời “. Nếu khoẻ mạnh, biết tính toán, chăm chỉ làm ăn sẽ có cơ hội trở nên giàu có; nếu có chí học hành sẽ thi đỗ làm quan. Những kẻ hống hách, kiêu kỳ bị khinh dễ, không có chỗ đứng trong thôn xã do tính khinh bạc, không coi trọng danh lợi, quyền quý mà coi trọng những điều nhân nghĩa của người mình. Câu nói : “ Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng “ có ý mỉa mai những người có học mà kiêu căng và ngay cả những người khoa bảng hách dịch.

Ngày xưa có những ông cử nhân, tiến sĩ hay tuần phủ, tổng đốc được vua ban sắc chỉ, võng lọng về làng nhưng không có tư cách, đức độ vẫn bị coi thường. Trong tiệc khao dân làng của họ, mọi người đến vì trọng bằng cấp, mũ áo của nhà vua nhưng chỉ ăn qua loa hoặc chống đũa ngồi đó làm gia chủ phải đem thịt, rượu ế đổ đi. Dưới đây là đôi câu đối của ông đồ Phan Diện viết dán ngiài cổng trong lúc nhà ông nghè Dương Lâm đang ăn khao cháu đỗ tiến sĩ thời Pháp thuộc :

  • Sung sướng thay! Quan Thiều làng Vân, con đỗ cống, cháu đỗ nghè, sắc chỉ vua ban, mề đay Tây gắn, giời riêng một nhà, tú-dua nhiều vận tốt.
  • Đau đớn nhẽ! Ông Hoàng họ Nguyễn, chồng một nơi, vợ một nẻo, ngày thì lội suối, tối lại qua đèo, đất chung cả nước, một mình gánh vác có ai khen ? ( Lê văn Siêu, Văn Minh VN trg 207). (Chú thích : Ông đồ: thầy giáo nơi thôn xóm, Làng Vân: làng Vân Đình thuộc H. Ứng Hoà, T. Hà Đông; Cống, Nghè : cử nhân, tiến sĩ ; Tú-dua : toujours là luôn luôn, tiếng Pháp; Mề đay (médaille): huy chương.)

Trong tập tục xưa, người Việt không bao giờ lấy vợ kém mình nhiều tuổi : Kém 5 hay 7 tuổi đó là em mình; kém 15, 20 tuổi đó là con hay cháu mình. Những người già lấy vợ trẻ bị người ta chê cười là ham muốn nhục dục :”Già đời còn chơi trống bỏi”. Cái cảnh :”Theo sau đủng đỉnh một, hai dì” của nhà Nho Nguyễn công Trứ bị chê trách, không phải là điều vinh dự trong xã hội Việt Nam.

Không ai biết làng xã được tổ chức từ bao giờ, dấu vết còn ghi lại ít nhất từ các vua Hùng dưới hình thức các buôn, bản của đồng bào Mường hay những đồng bào thiểu số khác gần với chúng ta. Những tiếng cổ xưa để chỉ thôn xóm thời ấy là làng chạ, làng mạc. Thời vua Hùng dựng nước đã có Lạc hầu, Lạc tướng coi một vùng thuộc quyền của mình như các quan lang, tù trưởng ngày nay của đồng bào thiểu số bây giờ. Như vậy là đã có nhiều thôn xóm, làng mạc qui tụ dưới quyền của các vị Lạc hầu, Lạc tướng và các vị này qui tụ lại thành quốc gia do các vua Hùng kế tiếp nhau ngự trị.

Nhưng trước khi thành quốc gia thì người Việt đã tổ chức làng xóm vững vàng, qui củ từ lâu lắm rồi, bằng chứng là các phong tục, tập quán, luật lệ, cơ cấu chính quyền xã, tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng đã ăn sâu vào đầu óc người dân và trở thành những nguyên tắc bất di bất dịch nên khi thành lập quốc gia, các vị vua chúa phải tôn trọng: “Phép vua cũng thua lệ làng”. Đời Trần – Trần thái Tông, đời Lê – Lê thánh Tông, nhà vua muốn bổ viên chức Xã quan (hay Lý Trưởng)­­­­ là người của nhà vua về cai trị thay cho các viên chức vẫn do dân chúng bầu ra đều thất bại phải bãi bỏ. Thời thuộc Pháp, chính quyền thực dân biết làng xã là nguyên nhân chính gây trở ngại cho chính sách đồng hoá của họ nên ra Nghị Định dưới danh nghĩa “ Cải Lương Hương Chính” ở Miền Bắc năm 1904 và Miền Nam năm 1921 cũng thất bại vì không được dân chúng tiếp nhận. Ngay sau khi chiếm 6 tỉnh Miền Nam (1864), năm 1874 Luro đã thấy rằng làng xã tự trị (commune automone) là một tổ chức có truyền thống ổn định rất xa xưa và khuyến cáo nhà cầm quyền thực dân thời ấy không nên đụng chạm đến vì có thể “ làm dân chúng bất bình đưa đến rối loạn “.

Nguyên nhân từ đâu?

Trước hết, đó là tinh thần dân chủ đã ăn sâu vào nếp sống của người dân. Nếu bị tước đoạt họ sẽ đoàn kết chống lại dưới mọi hình thức, mà hình thức thông thường là toàn dân trong các làng xã bảo nhau không hợp tác, tránh né không thi hành mệnh lệnh.

Có thể so sánh làng xã Việt Nam với các “Quốc Gia Đô Thị “ của Hy Lạp thời xưa hay những Tiểu Bang, những nước Cộng Hoà Tự Trị ở một số quốc gia như Mỹ, Ấn Độ, Nga…ngày nay. Nhưng làng xã Việt Nam kết hợp lại thành quốc gia không phải bởi luật pháp ràng buộc mà bởi tinh thần dân tộc do cùng một dòng máu, cùng một tổ tiên nên sự liên hệ giữa hai bên – làng xã và chính quyền trung ương – được giải quyết êm đẹp bằng cả tình lẫn lý, gần như không có sự xung đột nào quá đáng.

Làng xã của ta từ xưa đã có cơ cấu tổ chức gần giống với cách tổ chức chính quyền của các nước dân chủ ngày nay, đó là chia chính quyền xã thành cơ quan Lập Pháp (tương đương Quốc Hội) do Hội Đồng Kỳ Mục phụ trách và cơ quan Hành Pháp (tương đương Tổng Thống) do Lý Trưởng đứng đầu. Thời ấy chỉ không có cơ quan Tư Pháp (Toà Án) coi việc xét xử mà do vị Tiên Chỉ đứng đầu Hội Đồng Kỳ Mục hay Lý Trưởng phụ trách. Làng có Hiến Pháp là bản Hương Ước (qui định luật lệ về quyền lợi, nghĩa vụ cho người dân trong xã) do HĐ Kỳ Mục thành lập. Hội Đồng này còn có quyền thay đổi những tập tục lỗi thời hay ban hành những qui định mới. Lý Trưởng (hay Xã Trưởng) phụ trách việc thi hành Hương Ước, tổ chức tế lễ, thu thuế, bảo đảm an ninh, liên lạc với các cấp chính quyền thuộc quốc gia. Hội Đồng Kỳ Mục gồm những người có tuổi, có tư cách được dân làng kính trọng hoặc những người có học thức, những người đã từng có địa vị trong xã hội (cựu quan lại) do dân chúng tín nhiệm bàu ra.

Về văn hoá, mỗi xã có phong tục tập quán riêng ấn định việc cưới hỏi, lễ hội, ma chay, bầu cử, thuế má, phân chia công điền, công thổ…. Những tập tục ấy bắt buộc mọi người phải tôn trọng kể cả những người ngoài làng tới làm ăn, sinh sống hay tới để làm lễ cưới hỏi cho con cái mình vì “Đất có lề, quê có thói”. Những cách sinh hoạt khác lạ, dù trong nước cũng bị chận lại ngay ở cổng làng không cho len vào, nói gì đến lối ăn mặc, lối sống mà thực dân phương Bắc hay phương Tây đem tới bắt dân ta phải theo để đồng hoá!

Người ta còn nhớ vào thời Minh Mạng, một ông vua nhà Nguyễn triệt để theo Tàu. Năm 1828 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm dân mặc váy, dân chúng không tuân theo và phản đối kịch liệt qua những câu ca dao sau đây :

Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy (váy) người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần ra đứng đầu làng trông quan.

Những lời đả kích cay nghiệt, nhất là câu thơ cuối cùng, đối với mệnh lệnh của một ông vua khi làm trái với tập quán của dân chúng. Kết quả là 128 năm sau, khi ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại rời khỏi ngôi báu vào giữa thập niên 1950 thì người đàn bà miền Bắc vẫn còn mặc váy. Cho nên không có gì khó hiểu khi chúng ta thấy hai làng ở cách nhau một con đường mòn mà lễ cưới hỏi hay cách thức tổ chức hội hè, tế lễ, cách nói năng và nhất là giọng nói khác nhau. Người làng này sang làng khác sinh sống không được hưởng các quyền lợi như chia công điền, công thổ, không được tham gia việc làng trong khi vẫn phải thi hành các nghĩa vụ. Họ sống như người ở nhờ, sống ngoài lề dù ở đó bao nhiêu đời.

Do đó làng xã Việt Nam, nhất là ngoài Bắc (Miền Nam do bối cảnh lịch sử có khác đôi chút) không có người Trung Hoa nào len lỏi vài được. Họ ở ngoài phố thị buôn bán, làm thầy thuốc bắc hay thợ thuyền sinh sống.

Nói đến văn hoá, phải nói đến cái đình mà làng nào cũng có. Ngôi đình – thường được xây cất rất lớn theo lối nhà sàn, cột một người ôm, có mái cong, có cầu thang lên xuống – mang dấu tích sinh hoạt văn hoá và kiểu giáng của thời xa xưa mà ngày nay đồng bào thiểu số ở vùng cao kêu là nhà Làng hay nhà Rông. Đình là nơi trang trọng vừa dùng để thờ thần làng (thành hoàng), vừa là nơi tổ chức lễ hội, hát xướng, nơi hội họp toàn dân để bàn về những việc quan trọng, nơi HĐ Kỳ Mục và Lý Trưởng làm việc, nơi xét xử những người vi phạm thuần phong mỹ tục, xúc phạm thần làng, bất hiếu với cha mẹ…. Thường một làng một năm có vài dịp lễ hội, nhiều nhất là 3 tháng đầu năm :

Tháng Giêng ăn tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè….

Nhưng ngày quan trọng nhất là ngày lễ tế Thành Hoàng để nhớ ơn, để cầu cho dân an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Lễ này thường được tổ chức kèm theo những sinh hoạt văn hoá khác như hát chèo, hát nhà trò, đánh vật, thi nấu cơm, thi bơi thuyền, thi thả diều.. .và người dân trong làng nhân dịp này cùng nhau vui chơi ăn uống. Những dịp như thế tạo tinh thần trách nhiệm chung – qua việc đóng góp tiền bạc, công sức – và gây tình thương yêu, đoàn kết cũng như tinh thần gắn bó với bà con, xóm làng. Vì vậy không ai muốn rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn và nếu cực chẳng đã phải đi nơi khác làm ăn, họ rất buồn tủi cho là “đi tha phương cầu thực”, tức đi kiếm miếng ăn nơi xứ người!

Một đặc điểm văn hoá khác phát xuất từ nơi thôn xóm nhưng đã vượt lên tầm mức quốc gia và đi vào lịch sử, đó là nền Văn Hoá Cây Tre được người Việt tạo nên. Một huyền thoại từ thời xưa kể lại rằng khi đức thánh Gióng được vua Hùng cấp cho ngựa sắt, kiếm sắt đi đánh giặc Ân, ngài cưỡi ngựa ra trận dùng kiếm tả xung hữu đột giết giặc; khi kiếm sắt gãy, ngài nhổ gốc tre mà đánh khiến giặc tan tành. Nếu không có gốc tre bên đường hẳn lịch sử của chúng ta đã đổi khác.

Tre là một loại cây mọc ở vùng nhiệt đới, có chỗ mọc thành rừng. Thân tre thường cao 6, 7 mét, cành lá sum sê, lại mọc sát nhau nên cho nhiều bóng mát. Tre có nhiều loại: Tre gai, tre bương, nứa, tầm vông…riêng tre ngà và trúc trồng làm cảnh. Tre hiện diện trong mọi sinh hoạt của người Việt chúng ta ở khắp mọi nơi, từ cây tăm nhỏ bé, đôi đũa ăn hàng ngày, cái rá rửa rau, cái giỏ, cái giậm, cái thuyền, cái bè vó để đánh bắt cá; đòn xóc, đòn gánh, quang gánh, bắp cày, cán cuốc, cán mai để gồng gánh hay đào bới đất; cái thúng, cái mủng, cái nong, cái nia, cái bồ, cái cót để đựng lúa, đựng ngô; cái phên, cái liếp dựng trước nhà che nắng, mưa và gió; đến cả cái giường để nằm, cái nhà để ở cũng làm bằng tre.

Cao cấp hơn và mang rõ nét văn hoá là cái đàn tre thánh thót, cái sáo diều vi vu, ống sáo trúc đã làm rung động bao tâm hồn người nghe khi trao vào tay những nghệ sĩ tài ba như Tô kiều Ngân, Nguyễn đình Nghĩa….

Cây tre, cây trúc đã đi sâu vào tâm hồn người Việt :

Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.

Và:

Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre vắt vẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi thì mặc khó đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường đời.

Tre còn được dùng làm vũ khí chẳng những vào thời thánh Gióng mà cả vào thời cận và hiện đại, đó là cung, tên, cán đòng, cán giáo, gậy gộc. Nhưng ở đây chúng tôi muốn nói đến vai trò quan trọng như thành lũy của cây tre trong việc bảo tồn văn hoá và văn minh của người Việt.

Như chúng ta đã biết, ở thôn quê mỗi nhà có một lũy tre dày đặc vây quanh làm hàng rào và chỉ có một cổng ra vào. Đó là thế giới riêng của một gia đình với cha mẹ là những người điều khiển và dạy bảo con cái. Tất nhiên mỗi gia đình ở đâu cũng có lối sống riêng nhưng với hàng rào bao bọc không sợ người khác nhòm ngó tạo cho người ta tâm lý riêng tư hoàn toàn nên mỗi gia đình tự tạo ra nề nếp cho mình về lối sống, cách làm việc, trật tự trong gia đình (tuy vẫn tôn trọng tập quán của địa phương), do đó người ta có câu: “Nhập gia tùy tục “. Những gì khác với lối sống trong nhà đều bị cấm đoán hay ít ra khó được chấp nhận. Những người mới gia nhập như con dâu, con rể đều phải tuân theo nề nếp có sẵn.

Lũy tre nối từ nhà nọ đến nhà kia vây bọc khắp làng và chung quanh làng. Loại tre làng xã Việt Nam trồng là loại tre gai, gốc đặc, từ gốc đến ngọn mỗi đốt đều có nhánh đầy lá và mọc gai tua tủa, chui vào bị gai đâm, leo lên cao cũng bị gai đâm, đào lỗ chui vào thì bị lớp rễ dày đặc ngăn cản dưới đất. Thường thì mỗi làng chỉ có vài lối ra vào, ban đêm cổng làng bị đóng chặt có tuần phiên canh gác chống trộm cướp.

Từ ngoài nhìn vào, làng xã Việt Nam trông tựa như một đồn ấp với thành lũy bao bọc kiên cố. Quả thực nơi đó là đồn ấp chẳng những để bảo đảm an ninh chống trộm cướp mà còn là nơi chống lại sự đồng hoá thâm độc của kẻ thù xâm lăng qua chiều dài hơn ngàn năm Bắc thuộc và 80 năm Pháp thuộc nhờ được tổ chức chặt chẽ từ bao nhiêu đời trước, có tôn ti trật tự, sự thân thiết xóm làng, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lại có tôn giáo riêng (thờ thành hoàng), luật lệ, phong tục tập quán riêng không nhân nhượng bất cứ phong tục tập quán nào dù là của làng bên cạnh, của vua chúa ban ra như đã nói về chiếu chỉ của vua Minh Mạng, nói chi đến phong tục tập quán của kẻ xâm lăng. Cũng như trong một gia đình với luật lệ “Nhập gia tùy tục”, những phong tục, tập quán xa lạ đều phải để lại bên ngoài lũy tre trước khi bước chân vào làng, đó là nguyên tắc mọi người phải tôn trọng. Nói như thế không có nghĩa là người Việt Nam không chấp nhận sự tiến bộ, sự đổi mới mà mọi cái mới phải qua gạn lọc: chỉ có những điều nào có hại hoặc trái ngược với văn hoá dân tộc mới bị ngăn chặn, bài bác.

Trong lịch sử, làng xóm còn là những chiến lũy chống xâm lăng trong chiến thuật du kích. Đời nhà Trần, khi quân Nguyên sang xâm lăng, nhà Trần một mặt đem đại quân ngăn chặn, một mặt dùng chiến thuật du kích quấy phá. Thời nhà Lê, Bình định Vương khởi binh từ nơi thôn xóm. Thôn xóm là nơi che chở, ẩn nấp và tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Quân thù muốn hành quân nơi thôn xóm không bao giờ dám đi lẻ tẻ mà phải đem ít nhất hàng tiểu hay trung đội.

Vì vậy khi toàn dân Việt đã vùng lên đấu tranh thì quân giặc phải phân tán thành hàng ngàn đơn vị về làng xã để giữ an ninh. Quân Việt lợi dụng điều đó tìm cách dần dần thanh toán những đơn vị nhỏ của địch và tạo sức mạnh để khi thời cơ đến thì dồn nỗ lực quét sạch quân thù đem lại đôc lập cho đất nước.

Sau cùng, một yếu tố rất quan trọng khác đã được nhắc tới ngay trong phần đầu của bản Tuyên Ngôn Độc Lập do cụ Nguyễn Trãi viết sau khi dân tộc ta quyét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi vào đầu thế kỷ thứ 15 : “ Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương…“. Văn hiến, phong tục, tập quán chính là nền tảng Văn Hoá Việt Nam đã được xây dựng từ bốn, năm ngàn năm trước.

IV – Nền Tảng Văn Hóa Việt Nam

Người Việt chúng ta dạt dào tình cảm, từ tình yêu nước thương nòi, yêu quê hương, thương yêu cha mẹ anh chị em đến bạn bè, làng xóm. Tình cảm làm con người mơ mộng, dễ xúc động trước cảnh, trước người.

Thêm nữa tiếng Việt âm thanh trầm bổng tự nhiên nên khi chúng ta nói giọng cao, giọng thấp của các âm mang dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng nghe tựa như một bản nhạc hay một bài thơ rồi.

Sách cổ Tàu ghi người Việt nói líu lo như chim hót. Mới đây khi tôi vào mua đồ sửa chữa xe (part), người bán hàng cho biết ông ta đã sống ở Việt Nam mấy năm và nhận xét khi chúng ta nói chuyện âm điệu lên lên, xuống xuống nghe như nghe một bản nhạc.

Vì thế tổ tiên chúng ta đã để lại một kho tàng văn chương đồ sộ là tục ngữ, ca dao ghi lại mọi khía cạnh của đời sống từ tình yêu man – nữ đến tôn giáo, trời đất, phong tục tập quán, quan niệm về sự sống, sự chết, cách trồng tỉa, thời vụ….

Hai tập Tục Ngữ Phong Giao của Ông Nguyễn văn Ngọc được sưu tập vào năm 1928 gồm hơn 6.500 câu tục ngữ, hơn 850 bài ca dao và 366 bài thơ đố.

Sau này Ông Trọng Toàn trong hai tập Hương Hoa Đất Nước do nhà Xuất bản Bốn Phương in năm 1956 thu tìm được 2.077 bài gồm từ hai đến mười câu thơ. Không biết những câu phương ngôn của các địa phương xa xôi đã được ghi nhận hết chưa. Trong hơn hai ngàn bài ca dao Ông Trọng Toàn ghi nhận, tính trung bình mỗi bài có 5 câu thơ thì chúng ta có hơn mười ngàn câu (2.077 x 5 =10.385).

Điều đó chứng tỏ chúng ta có một nền văn học rất phong phú, rất sớm, cách đây nhiều ngàn năm, không thua người Trung Hoa về thời điểm và có thể cả về số lượng vì khi Khổng Tử soạn kinh Thi đã chỉ chọn được hơn ba trăm trong số những bài ca dao từ thời thượng cổ đến đời vua Bình Vương nhà Chu để dạy người Trung Hoa.

Ông Phan Khôi trong bài khảo luận về Tục ngữ Phong giao đăng trên báo Tao Đàn ngày 1-08-1939 cho rằng: “Trong hạng phong giao tả tình Việt Nam, những câu nói về trai gái hay vợ chồng chiếm một phần lớn chẳng khác trong Quốc Phong của Kinh Thi bên Tàu…. Chưa nói đến cái hay chỉ nói đến cái nhiều cũng đủ thấy chỗ đặc sắc của phong giao xứ ta…. Sau một hồi nghiên cứu về Tục Ngữ Phong Giao, tôi thấy ra nó có cái địa vị trong văn học vững vàng mà rực rỡ lắm.”

Tại sao dân tộc chúng ta sáng tác nhiều thơ văn đến thế?

Trước hết phải nói người Việt là một dân tộc chuộng thơ văn. Câu nói “mỗi người Việt Nam là một thi sĩ” không có gì quá đáng vì người Việt sống bằng tình cảm, dạt dào tình cảm, tâm hồn dễ rung động lại sống trong một đất nước xinh đẹp, núi cao, sông rộng, biển cả mênh mông, cỏ cây bốn mùa xanh tốt, con người hiền hòa dễ mến.

Trước cảnh ấy, người ấy, tất tức cảnh thành thơ:

Trúc xinh trúc mc đu đình,
Em xinh em
đng mt mình cũng xinh.
Tr
úc xinh trúc mc b ao,
Em xinh em
đng ch nào cũng xinh.

Đây là cảnh đẹp trên đường vào xứ Nghệ:

Đường vô x Ngh quanh quanh,
Non xanh, n
ước biếc như tranh ha đ.
Ai v
ô x Ngh thì vô!

Đứng trước cảnh núi cao, sông dài, biển rộng, con người bâng khuâng tự hỏi:

Núi kia ai đp mà cao,
S
ông kia, bin n ai đào mà sâu!

Ngày nay chúng ta thường hiểu Ca Dao là một thể thơ bình dân, nhưng nguyên thủy ca có nghĩa là hát và dao là bài hát ngắn. Vậy từ ngàn xưa trải dài qua cuộc sống dân tộc chúng ta mặc nhiên là ca sĩ trước khi trở thành thi sĩ mà không ai để ý.

Điều đó dễ hiểu vì ngôn ngữ của chúng ta quá dồi dào âm điệu, nói ra tiếng là đã thành như ca hát. Tiếng Việt rất phong phú về âm, chúng ta có khoảng 15.000 âm do sự biến hóa của các dấu kể trên với 12 nguyên âm i, o, a… và các nguyên âm kép như oa, oe, iu…. So với Trung Hoa, tiếng Bắc Kinh (Quan Thoại) chỉ có khoảng 1.300 âm – chưa bằng 1/10 Việt Nam; với Nhật số âm còn ít hơn, khoảng 120 âm (Tài liu ly t Tiếng Vit Mến Yêu ca Ông Đ thông Minh đăng trong Tp San Lê Hoa s Xuân 2006, trang 116).

So số vần trong 8 câu thơ Lục bát của ta với 8 câu thơ luật Đường của Trung Hoa thì số vần gấp hơn 2 lần (11 đối với 5):

 (Chữ Vần)
Làm trai nết đ trăm đường
Tr
ước tiên điu hiếu, đo thường xưa nay.
Công cha, đ
c m cao dày,
C
ưu mang trng nước nhng ngày còn thơ.
Nuôi con khó nh
c đến gi,
Tr
ưởng thành, con phi biết th hai thân.
Th
c khuya, dy sm chuyên cn,
Qu
t nng p lnh gi phn đo con.
: đường
: thường, nay
: dày
: ngày, thơ
: giờ
: thờ, thân
: cần
: phần
Ca Dao Cộng.: 11 vần
Đưa Cho V (Chữ Vần)
Quanh năm buôn bán ven sông,
Nuôi đ
năm con vi mt chng.
Lăn l
i thân cò khi quãng vng,
Eo sèo m
t nước bui đò đông.
M
t duyên, hai n âu đành phn,
Năm n
ng, mười mưa chng qun công.
Cha m
thói đi ăn  bc,
Có ch
ng h hng cũng như không.
: sông
: chồng: đông: công: không
Trần Tế Xương Cộng.: 5 vần

Có lẽ vì số âm ít nên Trung Hoa và nhiều nước khác không có thể thơ có vần ở giữa (yêu vận) như loại thơ Tám Sáu (Lục Bát) của ta.

Nhờ âm, điệu dồi dào nói không đã thành thơ, thành nhạc thì việc làm một vài câu thơ tả tình, tả cảnh hay nói về phong tục tập quán (tục ngữ) hoặc những lời khuyên dạy con cháu (châm ngôn) không khó nên từ xa xưa, trước khi có học hành chữ nghĩa, người Việt đã sáng tác rất nhiều câu thơ chúng ta gọi là ca dao. Vì là những bài “thơ” ngắn có vần, điệu êm tai, dễ nhớ nên được phổ biến rộng rãi và lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Bất cứ người Việt Nam nào, dù là người nông dân không bao giờ cắp sách tới trường, cũng thuộc ít nhiều những câu tục ngữ, ca dao liên quan tới cuộc sống hàng ngày về phong tục tập quán, cách cày cấy, thời tiết… như:

– Cơn (mưa) đàng đông va trông va chy.

– Tháng Chp thì mc trng khoai,
Th
áng Giêng trng đu, tháng hai trng cà….

– Ly tri mưa xung,
L
y nước tôi ung,
L
y rung tôi cày,
L
y bát cơm đy,
L
y rơm đun bếp.

– Ai ơi ch ly hc trò,
Dài l
ưng tn vi ăn no li nm.

Người bình dân từ thuộc ca dao đi đến việc dễ dàng sáng tác những câu ca dao.

Vì vậy phần lớn ý của ca dao đơn giản, bình dị; cách gieo vần cũng thế nên có người nói ca dao giống vè nhiều hơn thơ:

– Tin bm mt bò,
Tin b
n mt v, nm co mt mình.

– Tay mang túi bc kè kè,
N
ói quy nói quá cũng nghe m m.

Tuy nhiên có những bài ca dao rất hay cả về ý lẫn lời như bài dưới đây :

– Trèo lên cây bưởi hái hoa,
B
ước xung vườn cà, hái n tm xuân.
N
tm xuân n ra xanh biếc,
Em đã có ch
ng anh tiếc lm thay!

– Ba đng mt m tru cay,
Sao anh kh
ông hi nhng ngày còn không!
B
ây gi em đã có chng,
Nh
ư chim vào lng, như cá cn câu.
C
á cn câu biết đâu mà g,
Chim v
ào lng biết thu nào ra!

Đó là tâm tình của đôi trai gái ở sát nhà nhau, biết nhau từ nhỏ, lớn lên “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Rồi chàng phải lên đường tòng chinh hay vì nhà nghèo phải đi xa làm thuê làm mướn, khi trở về thì:

Trước sau nào thy bóng người,
Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông.
(Nguyễn Du)

Ôm mối thất tình chàng buồn rười rượi. Thế rồi một hôm nàng được phép chồng về thăm cha mẹ. Nghe giọng ai quen mà nhìn không thấy mặt vì hai nhà cách nhau bờ giậu. Lòng chàng bồn chồn đứng ngồi không yên hết leo lên cây bưởi ngó sang, lại xuống vườn cà sát bờ rào giả hái nụ tầm xuân (hoa hồng dại) để mong thấy mặt nói lời than thở. Hai câu chót dùng vần trắc (biếc, tiếc) diễn tả nỗi lòng đau khổ:

N tm xuân n ra xanh biếc,
Em
đã có chng anh tiếc lm thay!

Và nàng cũng vậy, sau khi trách chàng sao không dạm hỏi trước khi ra đi, đã tỏ rõ nỗi lòng nuối tiếc không cùng vì ván đã đóng thuyền mất rồi! Còn nền luân lý khắt khe, còn danh phận phải giữ gìn, không thể làm gì hơn. Nàng cũng dùng vần trắc (gỡ, thuở) ở hai câu cuối để bày tỏ lòng mình:

Cá cn câu biết đâu mà g,
Chim v
ào lng biết thu nào ra!

Mấy câu ca dao sau đây nói lên nỗi buồn cô quạnh, mênh mang của con người:

Đêm qua ra đng b ao,
Tr
ông cá, cá ln trông sao, sao m,
Bu
n trông con nhn giăng tơ,
Nh
n ơi, nhn hi, nhn ch mi ai!

Thiết tưởng những thi sĩ tài danh như Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân… chưa chắc đã làm được nhưng câu thơ hay hơn.

Chúng ta so sánh mấy giòng thơ sau đây với bài thơ Thề Non Nước của thi sĩ Tản Đà. Cả hai đều nói lên lòng chung thủy đợi chờ xem bài nào cô đọng hơn, xúc động hơn:

Đêm đêm tưởng gii Ngân Hà,
B
óng sao Tinh Đu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng d không mòn,
T
ào khê nước chy, lòng còn trơ trơ.
Ca Dao

Th Non Nước

Nước non nng mt li th,
N
ước đi đi mãi không v cùng non.
Nh
li nguyn nước th non,
N
ước đi chưa li non còn đng không.
Non cao nh
ng ngóng cùng trông,
Su
i khô giòng l ch mong tháng ngày.
X
ương mai mt nm hao gy,
T
óc mây mt mái đã đy tuyết sương.
Tản Đà

vietnam countryside thanhxinh artist

Lối hát Quan Họ Bắc Ninh, hát Ví hay hát Đối của đồng bào dân quê miền Bắc, Hát Trống Quân vào đêm Trung Thu, Hò kéo gỗ, Hò giã gạo, Hò miền Nam, Hát Ru v.v. hầu hết dùng thể thơ Sáu Tám cả.

Nhưng nói đến thơ bình dân mà không nói đến vè là một thiếu xót. Vè là loại bình dân nhất, dễ làm nhất thường dùng để chế nhạo, trêu cợt:

Nghe v nghe ve,
Nghe v
è xóm C,
H
p hành cãi vã,
Nh
ư đám m bò,
Vi
c làng không lo,
Kh
u đu np v.

Về sau, người ta dùng hai câu thơ bảy chữ có vần trắc cộng với thể thơ Sáu Tám thành thơ Song Thất Lục Bát sở trường diễn tả sự buồn phiền, ai oán trong Bần Nữ Thán, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc (có người cho rằng 2 câu thơ 7 chữ do biến thể từ thơ Đường luật, sau khi đọc kỹ ca dao tôi thấy không đúng. Lối gieo vần trắc ở giữa đã có rất nhiều trong ca dao, thí dụ vắn tắt như bài Trèo Lên Cây Bưởi Hái Hoa ở trên).

Có thể nói nền văn hoá Việt Nam không bị biến hoá hay đứt đoạn nhờ những bài hát hay những vần thơ bình dân. Tổ tiên chúng ta khởi công xây dựng văn hoá bằng những câu nói đơn sơ nhưng có vần có điệu như: “Cầu được, ước thấy.”, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.”, “Mất bò, mới lo làm chuồng.”

Từ đó tiến tới loại thơ gần với thơ Sáu Tám. Chúng ta lần lượt đọc những câu sau đây để hiểu rõ hơn sự tiến triển của ca dao Việt Nam:

– Đãi ct sáo ly ht đa,
Đãi ct gà ly tm.

Hay:

-Nng sm thì đi trng cà,
M
ưa sm nhà phơi thóc.

– C đm ăn xôi,
Đm thì vô hi, xôi chng được ăn.

– Mt nc đóm dày,
Mo nang tr
ôi sp biết ngày nào khôn.

– Ba v, by nàng hu,
Đêm nm chung trâu, gi đu bng chi!

Tới thể Sáu Tám là thể thơ hoàn chỉnh nhất, không những được giới bình dân sử dụng mà cả những người có học nơi cửa Khổng Sân Trình không những dùng để sáng tác tiểu thuyết dài bằng thơ mà còn dùng để viết sử nữa như Nguyễn huy Tự, Nguyễn Thiện với truyện Hoa Tiên, Nguyễn Du với Truyện Kiều, Nguyễn đình Chiểu với Lục Vân Tiên, Phạm đình Toái và Lê Ngô Cát với Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca v.v..

Ngày xưa nhà Nho thi cử phải thông thạo Phú Lục, Văn sách là những loại văn thơ của Tàu, không học văn thơ Việt Nam nên loại thơ chính thức các cụ hay làm là thơ Đường (loại thơ bảy chữ tám câu).

Nhưng nếu tổng cộng tất cả thơ được các cụ sáng tác bằng chữ Nho chưa chắc bằng số thơ các cụ sáng tác bằng chữ ta (nôm) qua thể Sáu Tám.

Điều đó giải thích tại sao chúng ta không bị Tàu hóa và nêu rõ địa vị quan trọng của tục ngữ ca dao trong nền Văn Hóa Việt Nam.

Đó mới chỉ là xét qua theo hình thức, xét phần nội dung tức những tư tưởng, tình cảm, phong tục, tập quán chứa đựng trong những câu nói, câu thơ bình dân kể trên mới là phần quan trọng. Sau đây là những điểm chính:

– Tín ngưỡng: Tín ngưỡng tức niềm tin tôn giáo. Người Việt Nam xưa đã có tôn giáo, đó là Đạo Trời trước khi các đạo Phật, Lão, Khổng, Thiên Chúa tới truyền bá.

Người Việt tin Ông Trời là đấng tối cao tạo dựng vạn vật, có toàn quyền năng mà mỗi khi cần xin điều gì, người ta vái lạy:

Ly Tri mưa xung,
L
y nước tôi ung,
L
y rung tôi cày,
L
y bát cơm đy,
L
y rơm đun bếp.

Đối với những kẻ độc ác, bất nhân người ta tin sẽ khó lòng thoát khỏi bị Trời trừng phạt với câu: “Lưới Trời lồng lộng.”, “Trời có mắt.” hoặc “Không có Trời ai ở được với ai.” hay:

– Đng cy kho, ch cy giàu,
Tr
i kia còn trên đu, còn kinh.

– Ca Tri, Tri li ly đi,
Gi
ương hai mt ếch làm chi được Tri!

Nên người ta phải ăn ở hiền lành, có nhân, có nghĩa:

– Làm ơn t hn nên ơn,
Tr
i nào ph k có nhơn bao gi.

Do đó người ta tin tưởng vào Đạo Trời:

– Dù ai nói ngược, nói xuôi,
Ta
đây vn gi Đo Tri khăng khăng.

Đạo Trời là đạo tự nhiên như ăn ngay ở lành, hoà thuận, thương yêu. Ông Trời đối với người Việt rất gần gũi và thân yêu, không cầu kỳ cao xa như Ngọc Hoàng Thượng Đế của người Trung Hoa, Thiên Chúa đáng sợ đáng kính của người Do Thái trong Kinh Cựu Ước.

Câu truyện cổ kể ngày xưa Trời ở sát với người nhưng anh chàng kia được vợ dặn ở nhà trông cái váy phơi trên cây sào. Anh chàng quên không để ý, đến lúc nhớ ra thì cái váy đã bị gió thổi bay mất. Chàng ta không biết thế lại nghi là trời ăn cắp nên lấy cây sào đâm trời, trời giận mới bay lên cao như bây giờ.

Hình ảnh Ông Trời đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt Nam nên hơi một tí là người ta kêu Trời. Vui cũng kêu Trời, buồn cũng kêu Trời: “Trời ơi vui quá!”, “Trời ơi sao tôi khổ quá!”

Đạo Phật đã hiện diện ở Việt Nam hơn 2 ngàn năm nhưng không xóa được hình ảnh Ông Trời trong đầu óc họ, trái lại người ta vẫn thường nói: “Nhờ Trời, nhờ Phật”. Được như vậy là vì Ông Trời trong Đạo Trời của Việt Nam là đấng thiêng liêng, có toàn quyền năng, đấng tạo dựng vạn vật mà đạo Công Giáo gọi là Thiên Chúa, Đạo Hồi gọi là đấng A-Lát, người Trung Hoa gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Tất cả, dù cách diễn tả có đôi chút khác, nhưng đều thờ một đấng tối cao mà thôi (Trong kinh sách xưa của đạo Công Giáo, những nhà truyền giáo Âu Châu cũng kêu Thiên Chúa là Đức Chúa Trời).

– Nhân sinh quan: Cũng như tư tưởng của Lão Trang du nhập về sau, người Việt Nam đã sớm nhận ra cuộc đời ngắn ngủi như hoa sớm nở, tối tàn:

– Người đi khác na là hoa,
S
m còn, ti mt, n ra li tàn.

Tuy cuộc đời ngắn ngủi, phi lý nhưng người Việt chúng ta quan niệm đã sống thì sống cho có ý nghĩa, đừng phí phạm tháng ngày:

– Đi người được my gang tay,
Ai hay ng
ngày, ch được na gang.

Và đã sống thì phải sống sao cho hào hùng, sống sao có ích cho đời :

– Làm trai cho đáng nên trai,
Xu
ng đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan.

Ngoài ra tục ngữ, ca dao còn đề cập đến nhiều vấn đề như giáo dục, tâm lý người đời, phong tục, tập quán, thời tiết, nông vụ…:

Giáo dc:

– Cá không ăn mui cá ươn,
Con kh
ông nghe li cha m trăm đường con hư.

– Dy con, con chng nghe li,
Con nghe
ông hnh đi đi nhà con.

– Ăn trông ni, ngi trông hướng.

Lòng hiếu tho:

– Công cha như núi Thái Sơn,
Ngh
ĩa m như nước trong ngun chy ra.
M
t lòng th m kính cha,
Cho tr
òn ch hiếu mi là đo con.

– Công cha đc m cao dày,
C
ưu mang trng nước nhng ngày ngây thơ.
Nu
ôi con khó nhc đến gi,
Tr
ưởng thành con phi biết th hai thân. 

Thi tiết:

– Ngày tháng 10 chưa cười đã ti.

– Mng chín tháng Chín không mưa,
M
con bán c cày ba mà ăn.
M
ng chín tháng Chín có mưa,
M
con đi sm v trưa mc lòng.

Thi v:

– Tháng Chp là tiết trng khoai,
Th
áng Giêng trng đu, tháng Hai trng cà.
Th
áng Ba cày b rung ra,
Th
áng Tư gieo m thun hoà nơi nơi.

– Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Th
áng hai trng đu, trng khoai, trng cà….

Phong tc, tp quán:

– Tháng Giêng ăn tết nhà,
Th
áng hai c bc, tháng Ba hi hè.
Th
áng Tư đong đu nu chè,
Ăn tết Đoan Ng tr v tháng năm.

– Phép vua thua l làng.

– Chng cô, v cu, chng dì,
Trong ba ng
ười y chết thì không tang.

– Ly cha ba ly, mt quì,
L
y m bn ly con đi ly chng.

Tâm lý:

– Yêu nên tt, ghét nên xu.

– Khó khăn ch leo teo,
Ông cô, bà cu chng điu hi sao.
Gi
àu sang tn nước Lào,
H
ùm tha, rn cn tìm vào cho mau.

vietnam countryside thanhxinh artist

Tóm lại, chỉ nhận xét riêng về phần Ca dao chúng ta thấy nước Việt từ ngàn xưa đã có một nền văn hoá riêng, phong tục tập quán riêng, tín ngưỡng riêng (thờ Trời, thờ Ông Bà Tổ Tiên), bờ cõi riêng được xác tín qua bài thơ sau đây của danh tướng Lý thường Kiệt:

Nam quc sơn hà Nam đế cư,
Ti
t nhiên đnh phn ti thiên thư.
Nh
ư hà nghch l lai xâm phm,
Nh
đng hành khan th bi hư.

Tạm dịch:

Vua Nam đt nước Nam,
S
ách tri phân đnh biên cương rõ ràng.
Gi
c nào dám ti hoành hành,
T
t nhiên đi bi tàn tành như tro.

Sự phân định bờ cõi cũng như xác định nền văn hoá Việt được Cụ Nguyễn Trãi hùng hồn nhắc lại trong bài Bình Ngô Đại Cáo sau khi dân tộc ta đánh đuổi quân Minh về nước:

Như nước Vit ta t trước
V
n xưng Văn Hiến đã lâu,
S
ơn hà cương vc đã chia,
Phong t
c Bc Nam cũng khác.

Ngoài ca dao, chúng ta còn có một kho tàng văn hoá cổ khác là các truyện cổ tích lưu truyền trong dân gian mà mãi về sau một số được ghi lại thành sách vở vào khoảng thế kỷ 13, 14 bởi các Ông Lý Tế Xuyên với Việt Điện U Linh tập và Trần Thế Pháp với Lĩnh Nam Trích Quái. Sau này còn các Ông Nguyễn Dữ viết Truyền Kỳ Mạn Lục, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết Tang Thương Ngẫu Lục sưu tập những truyện cổ trong dân gian. Những truyện loại này được truyền từ đầu môi của cha mẹ, ông bà hay các bậc gìa cả kể lại cho con cháu, từ đời này đến đời khác về truyền thuyết của dân tộc, các vị vua Hùng dựng nước, các vị anh hùng cứu nước như Đức thánh Gióng, Hai Bà Trưng, các vị thần linh như Thần núi Tản Viên, Chử Đồng Tử…. Qua những câu chuyện ấy, người ta biết được nguồn gốc của mình, biết được tổ tiên mình dựng nước và giữ nước ra sao, đất nước mình có những vị thần minh bảo trợ và các vị anh hùng hào kiệt từng chiến thắng kẻ xâm lược, những thuần phong mỹ tục phải duy trì (tục cưới hỏi trong truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, tình nghĩa vợ chồng, anh em trong truyện Trầu Cau…).

Cũng như ca dao, truyện cổ tích len lỏi vào tâm hồn người Việt như những mạch suối ngầm nên trải qua bao nhiêu cơn quốc biến với chính sách đồng hoá gắt gao từ đời Hán đến đời Minh, đời Thanh với chỉ thị thấy bất cứ dấu vết văn hóa nào như sách vở, bia đá, ca lý dân gian của người Việt thì một mảnh, một chữ, một câu cũng phải đốt, phải đục hết (Chỉ dụ của Minh thành Tổ ngày 21-8-1406). Sách vở, bia đá thì người Tàu tha hồ thu, tha hồ đục. Cái gì của Tàu trả cho Tàu. Cái gì của Việt một mảy may không hề sứt mẻ.

Nhìn qua sách vở viết bằng chữ Nho (Hán), hoặc nghiên cứu về các luật lệ, cách thức tổ chức triều đình xưa một số người Việt và người ngoại quốc vội cho rằng người Việt chịu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Trung hoa. Đó là một điều sai lầm vì người Việt xưa kia chưa có chữ thì viết bằng chữ Nho, các triều đại xưa thấy đạo Nho của Khổng Mạnh có lợi cho vương quyền nên cũng bắt trước Trung Hoa trong tổ chức triều nghi, đặt ra các luật lệ theo chiều hướng ấy hoặc như vua Gia Long nhà Nguyễn đem gần nguyên bộ luật của Nãm Thanh ra áp dụng. Đó chỉ là bộ mặt của các vương triều, các bộ luật không ảnh hưởng đến hầu hết dân chúng vì “Phép vua thua lệ làng”. Ngay cả các nhà Nho nổi tiếng về Hán học như các cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến… sau khi đỗ đạt thành danh thì lại qui ẩn nơi thôn dã sau lũy tre xanh, sống hòa mình với bà con của mình, ăn măng, ăn rau gía, uống rượu nếp, lấy cần câu tiêu khiển chứ không uống rượu bồ đào, lụa là, xe ngựa như người Trung Hoa:

– Thu ăn măng trc, đông ăn giá,
Xu
ân tm h sen, h tm ao.
R
ượu đến gc cây ta s nhp,
Nh
ìn xem phú qúi ta chiêm bao.
 Nguyễn Bỉnh Khiêm

Hay:

Ta gi ôm cn lâu chng được,
C
á đâu đp đng dưới chân bèo.
Nguyễn Khuyến

Một học giả người Pháp khi đã nghiên cứu kỹ văn hóa Việt Nam thấy rằng nền tảng văn hóa Việt Nam không hề thay đổi dù trải qua hai lần bị ngoại bang đô hộ (Trung hoa và Pháp) với mưu toan đồng hoá. Ông ví Văn hóa Việt như một cây tre, nếu cạo những lớp sơn (văn hóa ngoại lai) bên ngoài thì bên trong cây tre vẫn là cây tre.

Văn hóa Việt không ghi trong sách vở, văn bia, không viết bằng ngòi bút mà “viết” bằng lời nói, bằng một thứ ngôn từ rất huyền diệu được phổ biến và lưu truyền nhanh chóng. Trong bất cứ thời kỳ đen tối nào của dân tộc Việt, những câu ca dao hô hào lòng yêu nước hay phỉ báng quân thù không những không hủy được mà còn phát triển mạnh hơn như thời quân Thanh sang xâm lăng ra lệnh cho người Việt phải kết tóc thành bím thả ra phía sau như một cái đuôi. Việc này họ đã thành công ở bên Tàu nhưng thất bại ở Việt Nam:

Trèo lên trên núi mà coi,
Kìa kìa Ngô khách m
c đuôi đàng đu!

(Ch có loài thú vt như trâu, bò, la, nga
m
i có cái đuôi mc ch xu và dơ nht.
Đây là li nho báng rt nng n dành cho k xâm lăng).

Sự kiểm soát tư tưởng không thời nào khắt khe, tàn bạo và tinh vi như thời cộng sản vì ở khắp mọi nơi, mọi chỗ đều có đảng viên làm tai mắt. Những người dùng ngòi bút để chống đối như những nhà văn, nhà thơ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm hay Ông Nguyễn chí Thiện thì bị tù tội, văn sách bị tịch thu, bị cấm nhưng ca dao vẫn nảy nở và được lưu truyền rộng rãi:

– Mt người làm vic gp hai,
Đ cho cán b mua đài (radio), sm xe.
M
t người làm vic gp ba,
Đ cho cán b xây nhà xây sân. 

– Đôi giép râu xéo nát đi son tr,
M
ũ tai bèo che lp c tương lai.

Ngay cả những câu ca dao kỳ tai hại, cực kỳ nguy hiểm đối với chính quyền mà họ cũng không tài nào ngăn cấm được vì người ta không viết thành truyền đơn hay biểu ngữ nhưng lại ghé sát vào tai nói cho nhau nghe:

– Bao gi h cn, đng khô,
B
úa lim thì cũng là đ b đi..

Thời nay dù sách vở thuận tiện nhưng tục ngữ, ca dao vẫn đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành nếp sống của người Việt từ nông thôn tới thành thị và ngay cả cộng đồng người Việt ở nước ngoài mỗi khi muốn nói đến một cách cư xử hay một tập quán nào (như nghi lễ cưới xin) người ta vẫn dùng tục ngữ, ca dao để chứng dẫn.

Có người cho rằng trước sức bành trướng ào ạt của văn minh phương Tây, văn hóa Việt Nam sẽ bị trốc gốc. Chúng tôi thiết nghĩ đó là một ý tưởng bi quan, chúng ta đã qua thử thách của lịch sử trong qúa khứ. Một thử thách khác đang thể hiện nơi người Việt tị nạn sống khắp thế giới. Tuy là thiểu số nhưng nơi nào chúng ta cũng có khuynh hướng hội tụ thành quần thể với các sinh hoạt văn hóa riêng của mình như sách báo, đài phát thanh, đài truyền hình, ca nhạc, trường học, chùa, nhà thờ, các đoàn thể, hội đoàn…. Điều đó chứng tỏ nền Văn Hóa của chúng ta có thể tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Tranh minh họa: Thanh Xinh.

Theo luocsutocviet