Nói đến thành Gia Định là nói đến Tả quân Lê Văn Duyệt. Nhiều bạn đọc tỏ ra chưa thỏa mãn, bởi đề cập về Đức Tả quân trong hai bài tôi đã post vẫn quá khái lược. Tất nhiên, vì công lao với các vương triều nhà Nguyễn, có lẽ không mấy ai sánh bằng Lê Văn Duyệt. Võ công hiển hách, công nghiệp lẫy lừng, ông đồng thời cũng nức tiếng là một người thương dân ái quốc được cả nhân dân lẫn các thế lực lân bang bội phục. Đời riêng, thật không may, lại đeo dính ông không ít bi kịch thị phi. Hiểu về ông, vì thế không đơn giản. Viết về ông, hàng pho sách chưa đủ, đừng nói chỉ vài ba trang giấy.
Tuy nhiên, quyền được biết của người đọc, tôi cũng không thể chối từ. Bài viết này sẽ không nhắc lại những chi tiết đã nói đến trong hai bài trước.
Đại Công Thần Triều Nguyễn
Khái quát nhất, là đại công huân phò Chúa khai quốc, Lê Văn Duyệt là cái tên duy nhất được xếp trong cả hai “bảng phong thần” của các đời Chúa – Vua nhà Nguyễn. “Sinh vi công, thác vi thần”, khi mất, dẫu thế sự thăng trầm, ông vẫn nghiễm nhiên là Thành Hoàng “không thể bị luân chuyển hay hoán đổi” của đất Gia Định.
Bảng phong thần thứ nhất, “Ngũ hổ tướng các đời chúa Nguyễn”, xếp theo thứ tự thời gian, Lê Văn Duyệt xếp cuối cùng. Bởi lẽ, trước khi tạ thế, ông là người duy nhất trong ngũ hổ tướng được chứng kiến thành tựu công nghiệp Nguyễn triều, kết thúc 9 đời Chúa; nhất thống giang hà, Nguyễn Ánh lên ngôi Gia Long đế, khởi đầu triều đại 13 vua nhà Nguyễn. Lê Văn Duyệt là đại công thần phò chúa lập Vua, không bàn cãi.
Bốn người xếp trước Lê Văn Duyệt cũng lẫy lừng, tên tuổi lưu truyền vạn đại. Thứ nhất là Đào Duy Từ (1572-1634), hiệu là Lộc Khê, quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoa. Năm 1627, họ Đào trốn vào Đàng Trong, nhờ bạn tiến cử phò chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông đã đề xuất và giúp chúa Nguyễn xây dựng lũy Trường Dục và lũy Nhật Lệ (sau này quen goi là Lũy Thầy) cùng thành Đồng Hới, ngăn bước quân Trịnh. Ông cũng có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên bình định hai châu Bố Chánh, Ma Linh (Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay). Với nhà Nguyễn, Đào Duy Từ chỉ làm quan 8 năm (1627-1634) nhưng vẫn được xem là Đệ nhất khai quốc công thần, được Chúa Nguyển Phúc Nguyên ban sắc phong Thượng Đẳng thần.
Trước khi mất, ông còn kịp tiến cử con rể Nguyễn Hữu Tiến cho chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Tiến (1602-1666) quê ở làng Văn Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa, sau di cư vào ở huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Sách “Nam triều công nghiệp diễn chí” của Nguyễn Khoa Chiêm xem Nguyễn Hữu Tiến “võ công bậc nhất” của quân Nguyễn trong suốt thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ông từng được chúa Nguyễn phong Đô Đốc Thống Suất, chỉ huy binh mã chặn đánh và thắng lợi trong 2/7 trận giao tranh Trịnh – Nguyễn.
Năm 1631, Nguyễn Hữu Tiến ra mắt Đào Duy Từ, lúc này đang giữ chức Nội Tán (giống như Tể Tướng) của Chúa Nguyễn, được Đào Duy Từ tiến cử với chúa Nguyễn Phúc Nguyên và gả con gái cho.
Nguyễn Hữu Tiến phò suốt 3 đời chúa Nguyễn. Khi quân Trịnh tiến công Đàng Trong lần thứ 4 (năm 1648), Nguyễn Hữu Tiến được chúa Nguyễn Phúc Lan sai làm Tiên phong và Tổng chỉ huy, trong khi Thế tử Nguyễn Phúc Tần chỉ được làm phó tướng, chỉ huy quân bộ hỗ trợ. Trận này, Nguyễn Hữu Tiến đánh tan quân Trịnh, bắt sống 30.000 quân tướng họ Trịnh.
Lần giao tranh thứ 5 dai dẳng nhất, kéo dài 5 năm (1655-1660), Nguyễn Hữu Tiến được chúa Nguyễn Phúc Tần phong tước Hầu, sai giữ chức Tiết chế (Tổng chỉ huy). Ông đã đánh thắng hàng chục trận lớn nhỏ, đẩy quân Trịnh bật ra bờ bắc sông Lam (Nghệ An), làm chủ 7 huyện phía Nam thuộc Nghệ An và Hà Tĩnh sau này. Do sự đố kỵ và bất tuân của Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật, cũng là một mãnh tướng đầy tài thao lược, người được chúa Nguyễn yêu dùng hơn, năm 1660, Nguyễn Hữu Tiến bị quân Trịnh đẩy lui về phía Nam Đèo Ngang (nay là phần đất Quảng Trạch, Quảng Bình, vẫn còn những địa danh Ba Đồn, Ba Trại…). Ông đã cầm cự tại đó, không để quân Trịnh tiến thêm, bẻ gãy ý chí bình định Đàng Trong của chúa Trịnh. Dân Bắc Hà sợ nhưng phục, gọi ông là “Uy hổ đại tướng quân”.
Công lao giúp chúa Nguyễn mang gươm đi mở cõi, không ai hơn Nguyễn Hữu Cảnh (1650 – 1700). Ông quê ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Từ năm 1692, theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Hữu Cảnh được phong thống suất đã dẫn binh về phương Nam phạt Chiêm Thành, sáp nhập đất Ninh – Bình Thuận ngày nay thành trấn Thuận Thành.
Năm 1697, ông lãnh mệnh xuôi Nam mở cõi, lập nên Biên Hòa, Sài Gòn, đào kinh, lập ấp và chống giặc, vẽ thêm cả một vựa lúa miền Tây Nam Bộ vào diện mạo Việt Nam. Ông được chúa Nguyễn phong tước Lễ Thành Hầu. Khi ông mất, theo di nguyện, chúa Nguyễn đã cho đem thi hài ông về quê an táng. Trong khi đó, vùng Châu Đốc, An Giang, nhân dân xem ông là Thành Hoàng, được sắc phong bậc Thượng Đẳng thần. Đền thờ ông được lập ở nhiều nơi trên đất Nam Bộ, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ ở Cù lao Phố, Biên Hòa, Đồng Nai. Đây là trung tâm hành chính đầu tiên của Nông Nại Đại Phố – tiền thân của dinh Trấn Biên sau này.
Đồng thời với Lê Văn Duyệt, cùng giúp Nguyễn Ánh phục quốc, nhưng Võ Tánh (?-1801) được xếp trước bởi không may, ông lìa đời trước những 31 năm.
Võ Tánh sinh tại huyện Phước An, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), sau dời về huyện Bình Dương, Gia Định, không rõ năm. Từ 1783, không thần phục nhà Tây Sơn, ông cùng anh ruột khởi binh chống lại. Nguyễn Ánh nghe tiếng, phục tài, đã vời ông ra phò trợ và gả em gái cho. Theo Nguyễn Ánh đánh nhiều trận, nhưng công lao lớn nhất của ông là đích thân chỉ huy hạ thành Diên Khánh (Khánh Hòa) năm 1793. Năm 1789 ông cùng Nguyễn Huỳnh Đức đem quân đánh vào Quy Nhơn, diệt được nhiều binh tướng của Tây Sơn. Đô đốc Nguyễn Chất nhà Tây Sơn xin hàng, ông không giết, thu phục làm thuộc tướng, cùng nhau đánh thắng nhiều trận, buộc quan quân nhà Tây Sơn phải mở thành Quy Nhơn xin hàng.
Nguyễn Ánh giao cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ thành Quy Nhơn đã được đổi tên thành thành Bình Định (nay nằm trong thị xã An Nhơn). Sau đó, Nguyễn Ánh kéo quân về Gia Định. Đến năm 1801, chính Võ Tánh đã cùng Ngô Tùng Châu khuyên Nguyễn Ánh đem đại quân ra đánh Phú Xuân, tự nguyện lãnh trách nhiệm ở lại bảo vệ thành Bình Định. Tại đó, ông bị Thái phó Trần Quang Diệu và Đô đốc Võ Văn Dũng của nhà Tây Sơn bao vây, công phá suốt 14 tháng trời nhưng vẫn không nao núng. Quân Tây Sơn tấn công dồn dập và vây hãm bền bỉ nhưng vẫn không chiếm được thành.
Nghe tin Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân, Trần Quang Diệu nổi giận dốc toàn quân lực quyết hạ cho kỳ được thành Bình Định để trả thù. Không đương cự nổi, binh tướng bàn việc bỏ thành bảo mạng, Võ Tánh nhất quyết không nghe. Sau thế cùng lực kiệt, ông viết thư cho Trần Quang Diệu, xin quân Tây Sơn toàn mạng cho binh dân trong thành rồi cùng Ngô Tùng Châu tuẫn tiết vào ngày 7-7-1801, trước khi quân chúa Nguyễn do Lê Văn Duyệt chỉ huy, Đô đốc hồi đầu Nguyễn Chất trợ chiến kịp đại thắng trận đầm Thị Nại đưa quân tạt sang giải cứu. Cảm phục, Trần Quang Diệu đã cho an táng Võ Tánh tử tế và không giết bất kỳ một sĩ tốt hay thường dân nào ở trong thành. Ngay sau đó, chính Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cũng phải bỏ thành tháo chạy…
Nguyễn Ánh, chúa cuối cùng và Vua đầu tiên của nhà Nguyễn dấy nghiệp phục quốc từ miền Nam. Ngay cả khi sự nghiệp chưa thành, Gia Định cũng đã là trung tâm quyền lực của Nguyễn Ánh, từ đó thu hút nhiều nhân kiệt giúp mưu đồ định bá đồ vương. Vì thế, nói Gia Định tức là nói đến công nghiệp của Nguyễn Ánh – Gia Long. Bảng phong thần thứ hai, “Ngũ hổ tướng Gia Định” bao gồm những khai quốc công thần, những tâm phúc giúp Nguyễn Ánh khôi phục và xiển dương cơ nghiệp. Họ đồng thời đều là những người đã từng giữ chức Tổng trấn Gia Định trong những giai đoạn khác nhau. Đội ngũ này gồm: Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, (nguyên là võ tướng của Nguyễn Nhạc, sau trốn sang Xiêm rồi tìm đường về giúp Nguyễn Ánh, được phong Quận công, được cử làm Tổng Trấn Bắc thành, sau đổi vào cùng Trịnh Hoài Đức hiệp Tổng trấn Gia Định, cai quản toàn miền Nam), Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn Trương và Trương Tấn Bửu.
Quyền Lực Thị Phi
Lê Văn Duyệt sinh năm 1764. Dòng họ ông vốn gốc Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, di cư vào vàm Trà Lọt, thuộc làng Hòa Khánh (nay thuộc xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Sau khi sinh thành Lê Văn Duyệt, ông Lê Văn Toại, cha ông mới dời nhà về vùng Rạch Gầm, nay thuộc làng Long Hưng, cùng tỉnh.
Từ nhỏ, Lê Văn Duyệt đã là người ái nam ái nữ. Ông ít học hành chữ nghĩa, chỉ mê mải chọi chim, bắt cá và rất ham thích hát bội, đá gà. Tuy nhiên, ông là người có chí lớn, thích học võ và rất giỏi võ. Năm 15 tuổi, Lê Văn Duyệt từng tuyên bố: “Sinh ở đời loạn, không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là bậc trượng phu”.
Trên đường trốn chạy sự truy đuổi của quân Tây Sơn, trong một đêm mưa to gió lớn năm 1781, thuyền của Nguyễn Anh đã bị đắm gần vàm Trà Lọt. Nguyễn Ánh được Lê Văn Duyệt phát hiện bơi ra cứu thoát. Sau đó ông cùng cha là Lê Văn Toại cứu và cưu mang cả đoàn tùy tùng của Nguyễn Ánh thoát sự truy bức của nhà Tây Sơn, đưa cả đám quan chúa về nhà tá túc. Năm đó, Lê Văn Duyệt 17 tuổi. Thưởng công cứu giá, Nguyễn Anh nhận ông làm Thái Giám, sau phong lên chức Cai cơ coi sóc nội binh.
Ít học nhưng Lê văn Duyệt lại là một bậc kỳ tài quân sự. Ông đã theo phò Nguyễn Ánh Nam chinh Bắc chiến, lập nhiều công lao hãn mã trong việc đánh đuổi nhà Tây Sơn. Từ năm 1789, ông được Nguyễn Ánh đặt vào hàng tín tướng, cho dự bàn những việc cơ mật đại sự. Giỏi cầm quân, ông đã đánh thắng nhà anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ nhiều trận.
Tháng 1-1801, Lê Văn Duyệt lập công to khi cùng nhiều dũng tướng khác của nhà Nguyễn hạ thành Qui Nhơn, thu tóm thành Diên Khánh và phủ Bình Khương. Trận Đầm Thị Nại và sau đó hạ thành Quy Nhơn đầu năm 1801 được xem là “võ công đệ nhất” của nhà Nguyễn, cũng là là “võ công lớn nhất” của Lê Văn Duyệt. Đến tháng 5-1801, khi Nguyễn Ánh dẫn đại thủy quân ra vào cửa Tư Dung (Thừa Thiên), ông lại cầm quân đại phá quân Tây Sơn, bắt sống phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách, sau đó đuổi vua Cảnh Thịnh của nhà Tây Sơn chạy dài ra Bắc.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, ông được phong làm “Khâm sai Chưởng Tả quân dinh Bình Tây tướng quân, tước Quận công”. Ông được vua sai cùng với Thống chế Lê Chất đem bộ binh ra Bắc truy diệt vua quan nhà Tây Sơn rồi lại tiếp tục cầm quân chống loạn khắp nơi; bình định miền Nam và Thượng đạo Tây Nguyên; phạt quân Chân Lạp âm mưu dấy loạn không thần phục cũng như trừng trị tham quan ô lại và những gian thần âm mưu lộng quyền cát cứ.
Trong 18 năm cầm quân sau khi Gia Long lên ngôi, ông đều giành thắng lợi trong mọi chiến dịch. Năm 1820, Minh mạng cử ông vào làm Tổng trấn Gia Định kinh, cai quản từ Bình Thuận đến Hà Tiên. Ông có nhiều công lao trong việc định quốc chăm dân, mở mang kinh tế, trong đó có việc huy động 39.000 dân binh đào kinh Vĩnh Tế, vừa định ranh giới địa lý Việt – Miên, vừa làm đường thủy và nguồn thủy lợi mở mang nông nghiêp.
Năm 1807 Lê Văn Duyệt nhận lệnh vua đi dẹp loạn Mọi Đá Vách (khởi nghĩa chống triều đình của người Hre) ở vùng Thạch Bích, Quảng Ngãi. Thay vì thẳng tay đàn áp quân khởi nghĩa, ông lại ra lệnh chém đầu Chưởng cơ Lê Quốc Huy, tên đại thần tham nhũng, tàn ác, nguyên nhân chính gây ra bất mãn với triều đình và hình thành nên cuộc khởi nghĩa. Hành động thượng tôn luật pháp này của ông đã khiến loạn Mọi Đá Vách tan rã chỉ một năm sau đó.
Để củng cố sức mạnh nơi phên dậu, ông đã cho đắp thành Phiên An (Gia Định) bằng đá ong với thành cao, hào sâu làm nơi trấn thủ, đến năm 1830 thì tạm hoàn tất. Nhân dân kính trọng, gọi ông là “Ông lớn Thượng”. Các nước lân bang cũng nể sợ, gán cho ông danh xưng “Cọp gấm Đồng Nai”. Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên Đán hoặc đại khánh Vua nhà Nguyễn, Vua nước Cao Miên phải đích thân sang thành Phiên An chúc tụng. Riêng dịp Tết, Vua cao Miên phải có mặt từ trước đêm 30 để đúng sáng Mùng 1 Tết cùng Lê Văn Duyệt lên Vọng cung hành lễ, quay mặt về phương Bắc bái tạ và chúc thọ Vua nhà Nguyễn!
Ở cương vị Tổng trấn Gia Định, cai quản một vùng đất rộng 30.000 km2 phía Nam đất nước (từ Bình Thuận đến Hà Tiên), Lê Văn Duyệt đã hết sức quan tâm chăm lo đến đời sống nhân dân. Tại Gia Định, ông cho lập hai cơ sở từ thiện là Anh Hài và Giáo Dưỡng. Nơi thứ nhất là chốn dạy võ nghệ và nghề cung kiếm cho trẻ em, làm nguồn bổ sung cho quân đội về sau. Nơi thứ hai, ông thu gom trẻ em mồ côi, quả phụ không nơi nương tựa về nuôi nấng, dạy chữ và dạy nghề thủ công, giúp họ mưu sinh.
Thành Gia Định sau những tháng năm giặc giã đã nhanh chóng trở thành một đô thị sầm uất. Năm 1822, một phái đoàn thương mại Anh do ông Crawfurd dẫn đầu đã đến Gia Định và xin yết kiến Tổng Trấn Lê Văn Duyệt. Trong hồi ký của mình, Crawfurd đã không giấu nỗi sự thán phục: “Tôi bất ngờ thấy rằng nó (thành Gia Định) không thua gì kinh đô nước Xiêm (…). Tôi có cảm giác rằng đây là một vương quốc lý tưởng”.
Mô tả đời sống của nhân dân trong thành, vị khách Ăng-lê đã không tiếc lời ca tụng: “Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn xin rất hiếm. Tổng Trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu qui phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ, Tổng Trấn biết được cũng bị phạt rất nặng”.
Phan Thanh Giản, một vị quan thanh liêm khác cũng hết lời ca ngợi đức độ và tấm lòng vì dân của Lê Văn Duyệt: “Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng Trấn như đại quan. Tôi ở Kinh thành, ở Bắc thành vào Gia Định thấy như đi qua một nước khác (…). Tôi thật mừng” .
Là một người có tấm lòng cởi mở, khoan hòa, Lê Văn Duyệt đã sớm nhìn ra lòng dạ hẹp hòi và đầu óc thiển cận, cố chấp của Nguyễn Phúc Đảm (Vua Minh Mạng sau này), người được Gia Long ưu ái tuyên chọn, từ đầu đã tỏ ra không phục. Năm 1815, Lê Văn Duyệt cùng các trọng thần được triệu về kinh nghị bàn việc lập Đông cung Thái Tử kế vị Gia Long, ông đã công khai phản đối việc truyền ngôi cho Hoàng tử Đảm. Bi kịch quyền lực của đời ông bắt đầu từ đó.
Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi. Là khai quốc ông thần, Tả quân Lê Văn Duyệt từng được Gia Long cho hưởng nhiều đặc ân, trong đó có hai đặc quyền “nhập triều bất bái” và “tiền trảm hậu tấu”. Vì vậy sau này, ông dứt khoát không chịu lạy vua Minh Mạng, còn cả gan giết cả Huỳnh Công Lý, cha đẻ một quí phi được Minh Mạng sủng ái vì ông này phạm tội tham nhũng.
Trước đó, năm 1819, khi được sai đi kinh lược hai tỉnh Thanh Hóa – Nghệ An, ông lại thẳng tay trừng trị thêm nhiều tham quan ô lại khác, vỗ yên mầm bạo loạn ở hai vùng đất nổi tiếng kiêu binh qua mọi vương triều. Những kẻ tham gia bạo loạn ra hàng, ông đều tha tội chết và thu dung, lập thành ba đội lính hồi lương là An Thuận, Thanh Thuận và Bắc Thuận. Trong số này có Lê Văn Khôi, người gốc Cao Bằng, dấy loạn chống triều đình, bị truy nã nên phải trốn vào Thanh Hóa. Thấy Khôi là người có chí lớn và tài thao lược, Lê Văn Duyệt đã tha tội chết, lại nhận làm con nuôi, cho mang họ Lê và đưa theo về Gia Định hầu hạ dưới trướng. Và đây là nguyên nhân thứ hai dẫn đến đời ông chết vẫn chưa yên, vẫn bị hặc tội, đề bia, chịu tiếng thị phi xuyên hai thế kỷ.
Sau khi dẹp xong bạo loạn Lê Văn Khôi, Lê Văn Duyệt, dù chết đã từ lâu vẫn không tránh được liên lụy, vẫn bị Minh Mạng trả thù. Mộ ông bị Minh Mạng cho “san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết cho những chữ “Quyền yểm Lê Văn Duyệt pháp xử”, để chính tội danh cho kẻ đã chết mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời”.
Vĩ Thanh Cho Tấm Lòng Trung
Ngày 4-2-2008, bức tượng toàn thân Tả thần chưởng cơ Lê Văn Duyệt đã chính thức được an vị tại lăng Lê Văn Duyệt , thường gọi là Lăng Ông – Bà Chiểu, số 1, đường Vũ Tùng, Q. Bình Thạnh, TP. HCM. Việc đặt tượng ông đồng nghĩa với việc chấm dứt cuộc tranh cãi ồn ào hàng trăm năm quanh hai chữ công hay tội đối với bậc đại khai quốc công thần triều Nguyễn này.
Bức tượng Lê Văn Duyệt được đúc bằng đồng, cao 2,7m, nặng 2,8 tấn, do điêu khắc gia Phạm Văn Hạng thực hiện. Tượng mô tả ông theo đúng chân dung được vẽ trên tờ giấy bạc của miền Nam trước 1975. Trong đó, Đức Tả quân là người có khuôn mặt sáng, nhân từ, cái nhìn thấu thị. Thanh gươm đặt ngang trước bụng giới thiệu ông là một võ tướng, sự nghiệp gắn với những võ công hiển hách. Thế nhưng, ông lại là một người gầy gò, mày râu nhẵn nhụi. Điều này phù hợp với thực tế: bẩm sinh Lê Văn Duyệt là người ái nam ái nữ.
Sinh thời, Phan Thanh Giản đã từng phát biểu nhân nói về Lê Văn Duyệt: “Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan chỉ biết vui phần mình thì thật đáng trách.” Lê Văn Duyệt cùng với Phan Thanh Giản, người vì trung với triều Gia Long chống nhà Tây Sơn, người vì bất lực đành để đất nhiều tỉnh rơi vào tay giặc Pháp, đã có những lúc hàm oan, bị lịch sử xem như những tội đồ, gây ra những cuộc tranh cãi học thuật hàng thế kỷ.
Nhưng lòng dân công tâm, đền thờ Lê Văn Duyệt và đền thờ Phan Thanh Giản vẫn được dựng nhiều nơi. Lịch sử phức tạp có thể mang những định kiến chủ quan và sai lầm, nhưng lòng dân thì luôn sáng suốt và giản dị: ai thương dân, đó là người yêu nước. Những con người như thế vẫn luôn được nhân dân xem như những bậc anh hùng.
Theo tongphuochiep