Trong Hán Việt từ điển giản yếu, học giả Đào Duy Anh giảng từ bá đạo (霸道) như sau: “cái chính sách khinh nhân nghĩa, chuộng quyền thuật“. Quan điểm Nho giáo trước kia tồn tại hai học thuyết gồm vương đạo và bá đạo. Theo đó, vương đạo (còn gọi là học thuyết đế vương) là đường lối dùng nhân nghĩa để cai trị thiên hạ; ngược lại với bá đạo” là đường lối dùng vũ lực để cai trị thiên hạ.
Trong từ Bá đạo thì đạo là thành phần chính còn bá chỉ là thành phần thêm nghĩa.
Đạo (道) là một danh từ có nghĩa gốc là “đường đi”, từ đó mới phái sinh ra nghĩa bóng mà ta có thể thấy dùng để chỉ:
• Kỹ thuật, nghệ thuật, phương thức: trà đạo, hoa đạo, nhu đạo, y đạo…;
• Tôn giáo: bần đạo, an bần lạc đạo, truyền đạo, tuẫn đạo…;
Còn bá thì được Hán Việt tân tự điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng là “vua chư hầu” (nếu là danh từ), “ỷ sức mạnh” (nếu là động từ); Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh giảng là “lãnh tụ các nước chư hầu – Làm lớn, xưng hùng“.
Cứ như trên thì bá đạo có thể được hiểu là “đường lối cai trị dựa trên quyền thế và bạo lực”. Nghĩa này đã được nói rõ tại mục “Vương đạo và bá đạo” trong quyển Giải thích các danh từ triết học của Trung Quốc (Doãn Chính, Trương Giới, Trương Văn Chung dịch, NXB Giáo dục, 1994, trang 61).
– Những dáng ngồi bá đạo;
– Biển quảng cáo bá đạo…
Một số cư dân mạng đã “đúc kết” nghĩa của bá đạo như sau: vô đối, siêu phàm; có tính khí ngang ngược; khủng; lạ lùng, không tưởng tượng được. Những cái nghĩa này, suy đến cùng, cũng thuộc quỹ đạo nghĩa “đời thường” của danh ngữ bá đạo trong tiếng Hán mà thôi.