Thành ngữ “ba chìm bảy nổi”
Thành ngữ ba chìm bảy nổi dùng để ví cảnh ngộ của một người khi lên xuống, phiêu giạt, long đong vất vả nhiều phen: “Cái con người hai mươi chín mới nói chuyện vợ con đã ba chìm bảy nổi vì nghèo khổ” (Nguyễn
Thành ngữ ba chìm bảy nổi dùng để ví cảnh ngộ của một người khi lên xuống, phiêu giạt, long đong vất vả nhiều phen: “Cái con người hai mươi chín mới nói chuyện vợ con đã ba chìm bảy nổi vì nghèo khổ” (Nguyễn
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Khách sáo: có tính chất xã giao, lịch sự bề ngoài, không thật lòng. Lối mời mọc rất khách sáo. Không khách sáo với bạn bè”. Vậy nguồn gốc của từ này ra sao? Dựa vào định nghĩa trên,
Những từ mà chúng ta ngày nay cho là “thô tục”, đối với tổ tiên ta chúng mang đầy ý nghĩa về triết lý, vũ trụ quan và nhân sinh quan, nói một cách khác những từ này mang ý nghĩa của Dịch lý. Vì
“Này anh, tiếng Việt mình rất phong phú, riêng từ “cái” thôi, viết thì giống nhau, đọc lên giống nhau mà nghĩa thì khác hẳn. Người ta gọi đó là đồng tự, đồng âm mà dị nghĩa. Tuỳ theo vị trí chữ “cái” đó đứng
Đang có một sự xâm thực rất ghê gớm đẩy lùi tiếng mẹ đẻ ngay trên đất nước của người Việt. Ít nhất là có một cảm giác bị tha hương tị nạn ngay trên đất nước mình. Bài viết thể hiện quan điểm của
Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần
Một lần chờ xe buýt, tôi có dịp trò chuyện với một người rất trẻ, ăn mặc lịch sự, tóc hớt ngắn, đeo kính trắng nhìn có vẻ trí thức, áo chemise trắng, tay manchette thắt cravats sọc careau thanh nhã … Bà già và
DÙNG DẤU HỎI – NGÃ chỉ nhắc cái cơ bản dễ nhớ để viết chính tả tương đối ổn và hạn chế lỗi ở mức thấp nhất . 1 . DÙNG TỪ LÁY THEO QUI ƯỚC: – Dấu Hỏi đi với Sắc và Ngang. –
Ngày nay người ta thường sử dụng câu “ngựa quen đường cũ” để chỉ những người chứng nào tật nấy, dù có hứa cải thiện cỡ nào cũng vẫn sa vào những hành vi xấu xa như cũ. Ít ai biết được rằng, ngày xưa
Trong báo cáo này, tác giả đề cấp đến 3 nội dung: (1) Quan điểm về thanh điệu của những người đi tiên phong chế tác chữ QN; (2) Sự hình thành cách ghi thanh điệu và vai trò cá nhân một số nhà truyền
Chữ viết biểu thị cho nền văn minh của một nước. Ở Việt-Nam, chữ Hán chiếm địa vị chính thức suốt thời Bắc thuộc và tự trị, là thứ chữ hầu như duy nhất dùng trong Khoa cử, chữ Nôm chỉ xuất hiện đôi ba
Tại Việt Nam, từ cuộc tranh luận gay gắt về đề xuất đưa Hán Nôm vào trường học đã làm nảy sinh đến rất nhiều vấn đề có liên quan, trong đó có những vấn đề rộng hơn, xa hơn vấn đề ban đầu được